Theo dõi Báo Hànộimới trên

Làng Võng La

TUYETMINH| 17/04/2007 11:19

(HNMĐT)- Làng Võng La có tên Nôm là Kẻ Chài, nằm dọc bờ Bắc sông Hồng, giữa vùng đất bãi rộng, màu mỡ, bằng phẳng, sông nước hữu tình.

(HNMĐT)- Làng Võng La có tên Nôm là Kẻ Chài, nằm dọc bờ Bắc sông Hồng, giữa vùng đất bãi rộng, màu mỡ, bằng phẳng, sông nước hữu tình.

Đầu thế kỷ XIX, Võng La là một xã đứng đầu tổng Võng La thuộc huyện Yên Lãng, phủ Tam Đái, trấn Sơn Tây. Năm Tự Đức thứ 29 (1876), Võng La được nhập vào tổng Hải Bối huyện Đông Anh (mới được thành lập), phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (từ năm 1901 huyện Đông Anh được cắt chuyển sang tỉnh Phù Lỗ, năm 1904 là tỉnh Phúc Yên).

Cách mạng Tháng Tám thành công, Võng La là một xã độc lập. Trong kháng chiến chống Pháp, làng nhập với các làng Đại Độ, Sáp Mai thành một xã Việt Thắng huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (từ năm 1950 là tỉnh Vĩnh Phúc). Tháng 5 - 1961, xã Việt Thắng cùng các xã khác của huyện Đông Anh được cắt chuyển về thành phố Hà Nội. Năm 1965, xã Việt Thắng đổi tên thành Võng La.

Võng La là một làng cổ. Theo truyền thuyết và thần phả, vào thời các Vua Hùng Vương thứ 18, có bà Phùng Thị Loan làm nghề buôn bán đến sinh sống tại làng. Bà sinh ra ba người con trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Linh Khổn, Minh Chiêu và Cung Mục. Vào tuổi trưởng thành, ba người đều văn võ toàn tài, đã cùng Tản Viên Sơn Thánh chiêu tập quân sĩ đánh lại Thục Phán. Trong một trận bị quân Thục bao vây trong một khu rừng, ba ông cầu khấn trời, bỗng nhiên xuất hiện một con bò trước mặt, bèn cùng quân sĩ vắt sữa bò uống, thấy khoẻ mạnh và tỉnh táo lạ thường, nhất loạt xông lên, phá tan đội hình quân Thục. Để trả ơn ân nhân của mình, làng Võng La có tục từ xưa không giết bò. Sau khi ba ông mất, dân làng lập đền thờ cùng với thân mẫu.

Trước đây, làng Võng La có ngôi đình to và cổ thuộc diện nhất nhì trong vùng huyện Yên Lãng, với đại đình và nhà tiền tế bốn góc đao cong, trang trí long cuốn thủy, lân chầu, bờ nóc đắp long chầu mặt nguyệt; cổng đình với bốn trụ uy nghiêm hòa quyện và nổi bật giữa thiên nhiên, sông nước vùng ven sông đất bãi. Làng còn có ngôi chùa Bạch Sam (chùa Chài hay chùa Ba Xã). Tấm bia có niên hiệu Dương Hòa thứ tư (1638) cho biết, vào đầu thời Lê Trịnh, một vị sư của chùa có công chỡa bệnh cho chúa Trịnh nên được tôn làm “Thánh Tổ Ngọc Động”. Về sau, dân làng lấy ngày ông mất (mồng 10 tháng Tám) làm ngày giỗ tổ chùa.

Tuy là làng nhỏ (năm 1928 có 727 nhân khẩu), nhưng thời phong kiến, Võng La có hai người đỗ Tiến sĩ. Người đầu tiên là Phan Tự Cường (1636 - ?), đỗ khoa Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị đời Vua Lê Huyền Tông (năm 1670), làm quan Tham chính sứ Thanh Hoa, sau được thăng chức Thiêm Đô Ngự sử. Người thứ hai là Nguyễn Đăng Cơ (1670 - ?), đỗ khoa Canh Dần niên hiệu Vĩnh Thịnh đời Vua Lê Dụ Tông (năm 1710), làm quan đến chức Hàn lâm viện Thị giảng, được thăng lên chức Tự Khanh, tước Hoa Dĩnh bá.

Hàng năm, làng Võng La có hai kỳ hội. Hội tháng Bảy từ ngày 19 đến ngày 21 tưởng niệm Đức Thánh mẫu đã sinh ra ba anh em thành hoàng làng, có thi bơi chải giữa các giáp trong làng (mỗi giáp một thuyền) trên sông Hồng. Hội tháng Mười từ ngày mồng 10 đến 13, có lễ rước nước từ sông Hồng về đình.

Làng Võng La sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của Đảng. Từ năm 1941, Võng La là một điểm trong An toàn khu của Trung ương ở bờ Bắc sông Hồng. Cây gạo đầu làng và ngọn tháp trong chùa Bạch Sam là điểm liên lạc và nơi đặt hòm thư của Trung ương. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt từng được các gia đình cơ sở làng Võng La nuôi giấu để hoạt động.

PGS, TS. Bùi Xuân Đính
(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Làng Võng La

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.