Theo dõi Báo Hànộimới trên

Hội thề Đông Quan

Lan Châu| 27/06/2010 07:30

(HNM) - Khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn gần ca khúc khải hoàn, sông Nhĩ Hà, đoạn chảy qua kinh thành Thăng Long, được chứng kiến một sự kiện ngoại giao "xưa nay chưa từng thấy": Đó là Hội thề Đông Quan. Hội thề Đông Quan đã kết thúc cuộc khởi nghĩa anh dũng, quật cường, khẳng định sức mạnh, tầm vóc dân tộc Đại Việt, mở ra thời kỳ trung hưng mới của nước nhà.

Kế sách “tâm công”

Cuối năm 1426, Lê Lợi và Nguyễn Trãi dời đại bản doanh nghĩa quân Lam Sơn từ làng Đông Phù Liệt, nay thuộc xã Đông Mỹ, huyện Thanh Trì (Hà Nội) đến bến Bồ Đề ở bờ Bắc sông Nhĩ, đối diện kinh thành ở bờ Nam để vây hãm thành Đông Quan. Từ tháng 1-1427, nghĩa quân vừa công thành vừa dụ hàng Vương Thông (chỉ huy giặc Minh) với phương châm: “Ta mưu trí đánh dẹp bằng cách đánh vào lòng người, khiến không đánh mà quân giặc phải tự khuất phục”. Khích lệ tướng sĩ, Lê Lợi hứa rằng sau khi hạ thành Đông Quan, quét sạch bóng giặc Minh sẽ cho 25 vạn người về cày ruộng. Lại bảo, có bậc văn nhân tài tử nào chưa ra làm quan có thể viết thư đưa vào thành, khuyên dụ giặc mở cửa ra hàng hoặc giảng hòa để về nước, sẽ trọng dụng ngay.

Trong thư gửi Vương Thông sau đó, Nguyễn Trãi hết sức mềm mỏng: Việc bãi binh “không chỉ riêng một nước Giao Chỉ được may mà cũng là may lớn cho vạn bang trong thiên hạ vậy. Ơn triều đình đã cùng che chở với trời đất, cùng chiếu soi với nhật nguyệt, thì ngài có ra mệnh lệnh gì, tệ ấp nào dám sai trái”. Vương Thông, Sơn Thọ nấn ná, viện đủ cớ như phải chờ chỉ dụ triều đình (nhà Minh), phải chờ lập xong con cháu nhà Trần, phải chờ dâng biểu cầu phong… âm mưu kéo dài thời gian chiếm đóng. Nguyễn Trãi cương quyết: “Ngày nay, hòa nghị không thành, tín nghĩa hóa hão, không phải là lỗi tại tôi vậy”. Sau đó, Nguyễn Trãi lại biện giải sáu lẽ khiến quân Minh tất thua: “Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, tôi lấy làm tiếc cho ông lắm” và khích “hãy suy nghĩ cho kỹ, bằng không thì nên chỉnh quân bày trận, giao chiến ở chốn đồng bằng, quyết một trận được thua, để xem khéo vụng”...

Khi đó, lực lượng nghĩa quân Lam Sơn đã lớn mạnh. Quân phụ tử ở Thanh Hóa không dưới hai vạn, số quân tinh tráng ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hóa không dưới vài vạn, cùng quân các lộ Giao Châu không dưới mười vạn. Còn thế giặc thì “sức hết lực cùng, quân nhọc lính mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh... như thịt trên thớt, cá trong nồi...”. Kế sách “tâm công” bền bỉ của Lê Lợi, Nguyễn Trãi cuối cùng đã thắng lợi. Đầu tháng 12-1427, tin 15 vạn viện binh do Liễu Thăng chỉ huy bị tiêu diệt trên cánh đồng Xương Giang làm Vương Thông giữ thành Đông Quan tuyệt vọng, phải xin hàng. Sử ghi, ngày 10-12-1427, tại phía Nam thành Đông Quan đã diễn ra hội thề. Đoàn Đại Việt có 14 người do Lê Lợi dẫn đầu; đoàn của nhà Minh có 17 người do Vương Thông dẫn đầu. Bài văn đọc tại hội thề do Nguyễn Trãi soạn, có đoạn: “Từ sau khi lập lời thề này, quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng, để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lý trong bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm.

Bọn Lê Lợi chúng tôi nếu còn chứa lòng làm hại, tự làm việc lừa dối, không dẹp xa ngay quân lính, ngựa voi, việc làm không đúng lời nói (…) thì trời, đất, thần minh, núi cao sông lớn, cho đến thần kỳ các xứ, tôi cùng con cháu của tôi và cả người nước tôi, giết chết hết cả, không để sót lại mống nào.

Về phía bọn quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông, nếu không có lòng thực, tự trái lời thề, khi người phục dịch và các thuyền đã định rồi, cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lập tức đem quân về nước còn kéo dài năm tháng để đợi viện binh; cùng là ngày về đến triều đình, lại không theo sự lý trong bản tâu, lại bàn khác đi, hoặc cho quan quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân thì trời, đất cùng là danh sơn, đại xuyên và thần kỳ các xứ tất cả đem bọn quan Tổng binh Thành Sơn hầu là Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích, làm cho chết hết và cả quan quân cũng không một người nào được về đến nhà.

... Trời, đất thần kỳ cùng soi xét cho!”.

Ngày 29-12-1427, hơn 10 vạn quân Minh rút về nước. Nhân dân ta, sau 10 năm chiến đấu dưới cờ khởi nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn đã giành lại độc lập.

Nơi diễn ra Hội thề Đông Quan - Một tồn nghi lịch sử

Kể từ Hội thề năm 1427, 583 năm đã trôi qua, sử gia các thời đại đều đánh giá Hội thề Đông Quan thể hiện sâu sắc tinh thần hòa hiếu, “cốt yên dân” của quân dân Đại Việt. Áng thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại cáo viết: “Chúng đã sợ chết tham sống mà muốn thực cầu hòa/ Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được nghỉ/ Chẳng những mưu kế cực kỳ sâu xa/ Tưởng cũng xưa nay chưa từng được thấy”. Một câu hỏi khá thú vị được đặt ra: Hội thề Đông Quan diễn ra tại vị trí nào ở phía Nam thành?

Cách đây hơn 20 năm, có nhà nghiên cứu nói hội thề diễn ra tại chùa Chân Tiên ở cuối phố Bà Triệu bây giờ. Cụ Hoàng Đạo Thúy cho rằng, chùa Chân Tiên ban đầu ở khu vực phố Tràng Thi, sau chuyển về làng Phụ Khánh. Khi người Pháp lấy đất ấy xây nhà tù Hỏa Lò thì chùa chuyển về vị trí hiện nay nên không thể là nơi diễn ra hội thề. TS Nguyễn Mạnh Cường (Viện Nghiên cứu tôn giáo) lại đặt ra giả thuyết hội thề diễn ra ở vùng đất My Động - Mai Động. Mai Động cách ô Cầu Dền khoảng 1,5km. Theo ông Cường, vốn ngày 4-4-1427, Vương Thông bất ngờ cho quân đánh úp doanh trại của Thái giám Lê Nguyễn ở Tây Phù Liệt (nay là làng Việt Yên, xã Ngũ Hiệp, Thanh Trì - nơi ban đầu Lê Lợi, Nguyễn Trãi đóng đại bản doanh khi từ Thanh Hóa ra). Lê Nguyễn chống trả quyết liệt nhưng rơi vào thế cô, Lê Lợi cho Đinh Lễ, Nguyễn Xí đem 500 voi chiến đến ứng cứu. Quân giặc giả đò thua chạy, Đinh Lễ, Nguyễn Xí đuổi theo, đến My Động (Mai Động ngày nay) thì bị phục binh giặc bắt. Đứng từ thành Đông Quan nhìn ra thì Mai Động nằm ở phía Nam thành; đứng từ dinh Bồ Đề nhìn sang thì đây là mảnh đất giáp sông lầy thụt, Lê Lợi có thể chọn nơi này...

Dù vậy, đến thời điểm này, nơi diễn ra Hội thề Đông Quan chưa đủ bằng cứ xác thực. Tuy nhiên, cần căn cứ vào văn bia Vĩnh Lăng do Nguyễn Trãi soạn tháng 10 năm Quý Sửu - 1433, tức năm Thuận Thiên thứ 6, ca ngợi công đức của Lê Thái Tổ. Bia một mặt, cỡ 192x280cm. Tên bia viết lối chữ triện, diềm bia chạm rồng và sóng nước. Văn bia viết: “Bấy giờ trấn thủ thành Đông Quan là bọn Thành Sơn hầu Vương Thông trước đã cùng quân ta giảng hòa mà chưa xong, đến đây, xin thề ở trên sông Nhĩ, những thành trì trấn thủ các xứ đều mở cửa ra hàng”.

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Hội thề Đông Quan

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.