Theo dõi Báo Hànộimới trên

Phát triển con người Việt Nam: Có tiến bộ nhưng còn nhiều thách thức

Lâm Vũ| 23/03/2016 07:42

(HNM) - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc vừa công bố Báo cáo phát triển con người Việt Nam năm 2015. Điều thấy rõ là Việt Nam đã đạt được những tiến bộ đáng ghi nhận về phát triển con người, song cũng đứng trước rất nhiều thách thức.

Bảo hiểm y tế toàn dân là một trong những mục tiêu hàng đầu trong công tác phát triển con người. Ảnh: Hải Anh


Ấn tượng với "ba trụ cột"

Tiến sĩ Nguyễn Thắng, Giám đốc Trung tâm Phân tích và Dự báo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, một trong số tác giả của báo cáo cho biết, ở cấp quốc gia, trong 35 năm qua, Việt Nam đã đạt được những kết quả ấn tượng về phát triển con người, song sự tiến bộ không đồng đều qua từng giai đoạn. Giai đoạn 1980-1990, chỉ số HDI (chỉ số phát triển con người dựa trên kết quả đạt được về thu nhập, giáo dục và y tế) tăng trung bình chỉ ở mức 0,26%/năm, sau đó tăng nhanh lên mức 1,92%/năm trong giai đoạn 1990-2000, rồi giảm xuống mức 1,33%/năm trong giai đoạn 2000-2008 và 0,69%/năm từ 2008.

So sánh với các nước, năm 1980, chỉ số HDI của Việt Nam vừa đủ cao hơn mức bình quân của nhóm nước phát triển con người trung bình. Đến năm 1990, chỉ số HDI của Việt Nam rõ ràng đã tụt lại, dù khoảng cách được thu hẹp xuống mức 4,7% vào năm 2008 nhưng đến năm 2014 thì cách biệt về chỉ số HDI của Việt Nam so với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương đã tăng trở lại.

Chỉ số HDI cấp tỉnh cho thấy tất cả các nơi đều có tiến bộ tích cực, nhưng mức độ không đồng đều. Có một số tỉnh "đang lên" như Hậu Giang, Tiền Giang, Bình Phước... trong khi ở một số tỉnh khác như Hà Nam, Nghệ An... sự tiến bộ chậm hơn, dẫn đến sự tụt hạng. Các tỉnh dẫn đầu về phát triển con người vẫn duy trì được sự tiến bộ như kỳ vọng, trong đó, Hà Nội đang ở vị trí thứ tư - sau Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và Bà Rịa - Vũng Tàu.

Điều đáng ghi nhận là cả ba trụ cột của tăng trưởng bao trùm gồm việc làm có năng suất, dịch vụ xã hội (đặc biệt là giáo dục và y tế) và an sinh xã hội đều đạt được kết quả đáng khích lệ. Liên quan đến việc làm có năng suất, tỷ trọng việc làm nông nghiệp giảm mạnh, từ gần 80% vào những năm đầu đổi mới xuống còn 44,3% vào năm 2015. Trong lĩnh vực y tế, ấn tượng điển hình là tuổi thọ kỳ vọng - một hợp phần then chốt của HDI - đã tăng từ 67,6 lên 75,9 trong khoảng từ năm 1980 đến 2013. Về an sinh xã hội, Bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện đã có 11,4 triệu thành viên, gần 1,6 triệu người già từ 80 tuổi trở lên đang được nhận trợ cấp xã hội hằng tháng từ ngân sách nhà nước, gần 75% người Việt Nam là đối tượng của bảo hiểm y tế... Đó thực sự là những chỉ số gây ấn tượng.

Phía trước là thách thức

Theo ông Nguyễn Tiên Phong, chuyên viên Chương trình phát triển Liên hợp quốc, Việt Nam đang đối mặt với rất nhiều thách thức, trong đó bao gồm hệ thống giáo dục (cụ thể là cấp mầm non, cao đẳng, dạy nghề, đại học) và hệ thống y tế chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu đặt ra trong giai đoạn phát triển mới. Những bất cập trong hệ thống quản trị giáo dục và y tế - những dịch vụ mang nhiều tính chất "hàng hóa công", việc mở rộng xã hội hóa không đi kèm với những tiêu chuẩn và sự điều tiết phù hợp đã tạo ra các kết quả đầu ra không tương xứng với sự đầu tư lớn của Nhà nước và gia đình trong các lĩnh vực này dù Việt Nam đã chi tới 6,6% GDP cho y tế và 7,8% GDP cho giáo dục.

Trên thực tế, Việt Nam đang đứng trước nguy cơ của nền kinh tế đa tốc độ. Kinh tế Việt Nam khởi sắc rõ nét trong năm 2015 với tốc độ tăng trưởng đạt mức 6,68%, tuy nhiên, kết quả này chịu sự chi phối bởi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với kết quả vượt trội so với khu vực kinh tế trong nước. Theo các nhà nghiên cứu, khi mối liên kết giữa hai khu vực này yếu đi thì Việt Nam dễ rơi vào "bẫy gia công lắp ráp" (mức thấp của bẫy thu nhập trung bình). Nguy cơ của nền kinh tế đa tốc độ hiện rõ hơn khi sự chênh lệch về tăng trưởng và phát triển giữa các tỉnh nằm trong các cực tăng trưởng và các tỉnh còn lại chưa có dấu hiệu được thu hẹp.

Theo TS Nguyễn Thắng, để thúc đẩy tăng trưởng bao trùm lên cấp độ cao hơn trong bối cảnh phát triển mới, cần có các giải pháp toàn diện để mở rộng việc làm có năng suất như kiểm soát lạm phát và duy trì các cán cân vĩ mô ở mức hợp lý; nâng cao hiệu quả của nền kinh tế bằng cách đẩy mạnh cải cách trong nước cùng với nỗ lực tăng cường hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, cần có giải pháp đổi mới hệ thống an sinh xã hội để bảo đảm diện bao phủ lớn hơn, hiệu quả cao hơn nhằm giúp người dân và nền kinh tế có được sức chống chọi tốt hơn với các cú sốc. Một vài biện pháp cụ thể là: Thực hiện các biện pháp khuyến khích để đạt mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân đi đôi với việc cải thiện quản lý, tính minh bạch, công bằng, hiệu quả của Quỹ Bảo hiểm y tế; xây dựng hệ thống trợ giúp xã hội dựa trên nguyên tắc "vòng đời" ...

Ông Nguyễn Tiên Phong, chuyên viên Chương trình phát triển Liên hợp quốc: 

Việt Nam đã phát triển hệ thống an sinh xã hội cơ bản nhưng hệ thống này chia thành hai nhánh rõ ràng, gồm bảo hiểm xã hội và trợ giúp xã hội. Bảo hiểm xã hội tương đối "hào phóng" cho những người làm việc trong khu vực chính thức; hiệu quả trợ giúp xã hội cho những người nghèo nhất còn hạn chế.

Diện bao phủ hạn chế của chương trình trợ giúp xã hội đã dẫn tới việc "bỏ sót nhóm ở giữa", gồm nhóm cận nghèo và nhóm trung lưu lớp dưới thường làm việc ở khu vực phi chính thức - những người hoặc là chưa đủ tiêu chuẩn để được nhận trợ giúp xã hội, hoặc là chưa có khả năng tiếp cận bảo hiểm xã hội.
(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Phát triển con người Việt Nam: Có tiến bộ nhưng còn nhiều thách thức

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.