(HNM) - Trước sức ép từ đợt phá giá đồng nhân dân tệ (NDT), tới 4,67% so với đô la Mỹ (USD) của Trung Quốc từ ngày 11-8-2015, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam đã điều chỉnh tỷ giá hối đoái tăng thêm 1%, đồng thời nâng biên độ dao động lên +/-3% từ mức +/-2% được thiết lập một tuần trước đó. Mặc dù việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái sẽ tác động đến lạm phát, dòng vốn đầu tư và nợ công ở Việt Nam nhưng theo các chuyên gia kinh tế, mức độ tác động là không đáng lo ngại. Xung quanh vấn đề này, Báo Hànộimới có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế - TS Vũ Đình Ánh.
TS, chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh. |
Ứng phó linh hoạt
- Việc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc bất ngờ phá giá đồng NDT 3 lần liên tiếp thời gian vừa qua đã gây xáo động mạnh trên thị trường tài chính, tiền tệ toàn cầu. Điều đó tác động thế nào đến thị trường ngoại hối Việt Nam?
- Từ ngày 11-8-2015, chỉ trong 3 ngày liên tiếp, Trung Quốc đã phá giá NDT tới 4,67%. Đây là lần phá giá lớn nhất của NDT trong hơn hai thập kỷ qua và đưa giá NDT xuống mức thấp nhất so với USD trong mấy năm gần đây. Hành động điều chỉnh mạnh, bất ngờ và khó lường của Trung Quốc được giải thích là nhằm kích thích tốc độ tăng xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế khi cả hai chỉ số này đều xuống thấp trong thời gian qua. Với vị trí nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là nhà xuất nhập khẩu hàng đầu trên thị trường toàn cầu, NDT mất giá mạnh đã, đang và sẽ tác động lớn tới nền kinh tế thế giới, đặc biệt là thị trường hàng hóa, thị trường tài chính. Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng mạnh từ việc mất giá của NDT do Trung Quốc là nước xuất khẩu lớn sang Việt Nam, đồng thời là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam. Bên cạnh đó, các quan hệ đầu tư, tài chính giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng không ngừng gia tăng trên nền tảng sử dụng cả USD và NDT.
- Chính vì thế, Việt Nam cần có các biện pháp vừa cấp bách vừa lâu dài để ứng phó với tác động của việc phá giá NDT tới thương mại, đầu tư, tài chính nhằm tận dụng cơ hội và hạn chế thiệt hại từ chính sách hạ giá NDT của Trung Quốc?
- Đúng vậy, ngày 12-8-2015, NHNN Việt Nam tuyên bố nới biên độ dao động giữa tỷ giá giao dịch thực tế tại các ngân hàng thương mại với tỷ giá hối đoái chính thức từ +/-1% lên +/-2% như một phản ứng tức thời đối phó với việc phá giá NDT. Đến ngày 19-8-2015, tỷ giá hối đoái chính thức được điều chỉnh tăng thêm 1%, đồng thời biên độ dao động cũng được nâng lên +/-3% từ mức +/-2% mới được thiết lập trước đó. Như vậy, kể từ đầu năm 2015 đến nay, VND đã giảm giá hơn 5% so với USD. Phản ứng của NHNN trước biến động trên thị trường tiền tệ quốc tế là nhất quán với nguyên tắc điều hành chính sách tỷ giá hối đoái chủ động, linh hoạt nhằm bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh thị trường ngoại hối chịu sức ép không chỉ từ diễn biến khôn lường bên ngoài mà còn từ dấu hiệu kinh tế vĩ mô bên trong.
- Sự giảm giá đồng Việt Nam (VND) sẽ hỗ trợ khả năng cạnh tranh về giá cho nhiều ngành hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nhưng sẽ tác động tiêu cực đến những ngành hàng nào, thưa ông?
- Với nền kinh tế có định hướng xuất khẩu như Việt Nam, đồng nội tệ giảm sẽ có tác động hai chiều đến các nhóm ngành. Những nhóm ngành được đánh giá có ảnh hưởng tích cực từ việc tăng tỷ giá là thủy sản, dầu khí, dệt may và công nghệ. Trong đó, ngành thủy sản được ảnh hưởng tích cực do các doanh nghiệp (DN) chủ yếu xuất khẩu sang Mỹ, EU và Đông Á. Trong khi đó, nguồn thu của các DN dầu khí chủ yếu bằng USD và chi phí bằng VND vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Đối với các DN dệt may, doanh thu xuất khẩu tăng, chi phí nguyên liệu đầu vào không bị tác động lớn do NDT giảm giá. Ngược lại, các nhóm ngành sẽ chịu ảnh hưởng tiêu cực từ việc tăng tỷ giá là vận tải biển, xi măng, dược, nhựa, săm lốp và điện. Riêng nhóm ngành cao su sẽ có ảnh hưởng trung lập do các DN xuất khẩu cao su gặp nhiều khó khăn trước động thái phá giá NDT trong khi Trung Quốc tiêu thụ đến 50% sản lượng cao su xuất khẩu. Vì thế, việc tăng tỷ giá VND/USD làm giảm bớt tác động tiêu cực của việc phá giá NDT.
Tác động không đáng lo ngại
- Việc nới rộng biên độ dao động có tác động gì đến thị trường ngoại hối và các DN Việt Nam?
- Việc nới rộng biên độ dao động đã giúp cho tỷ giá giao dịch thực tế giữa VND và USD bớt căng thẳng, phù hợp hơn với diễn biến của thị trường ngoại hối, đặc biệt là giúp củng cố sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trong bối cảnh nhiều đối tác, đối thủ thương mại của nước ta đã, đang và sẽ sử dụng tỷ giá hối đoái như một công cụ cạnh tranh xuất khẩu chủ yếu. Theo lý thuyết, việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái thông thường sẽ tác động đến tất cả các DN Việt Nam, đặc biệt sẽ hỗ trợ cho việc kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế với mức độ điều chỉnh chưa phải quá lớn, trong khi đối với diễn biến của nền kinh tế Việt Nam, tác động của tỷ giá hối đoái đến việc tăng xuất khẩu cũng như hạn chế nhập khẩu là chưa rõ ràng như tính toán. Ngoài ra, việc điều chỉnh tỷ giá còn liên quan đến hàng loạt yếu tố về tài chính khi chúng ta sử dụng đồng ngoại tệ, đặc biệt có liên quan đến các DN Việt Nam vay mượn bằng USD hoặc các loại ngoại tệ khác. Bởi vậy, các DN vẫn phải đặt bài toán tỷ giá như một trong những biến số kinh tế trong kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình để từ đó tìm ra được các yếu tố có lợi nhất và hạn chế tốt nhất những tác động rủi ro.
- Nhiều ý kiến lo ngại khi giảm giá VND sẽ tác động tới dòng vốn đầu tư và nợ công. Ông nhận định thế nào về vấn đề này?
- Đầu tư và nợ công là hai mối quan tâm hàng đầu khi giảm giá VND nhưng vấn đề này cũng được giải tỏa do quy mô đầu tư toàn xã hội nói chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài nói riêng phụ thuộc nhiều hơn vào cải cách thủ tục hành chính, môi trường đầu tư và lộ trình mở cửa thực hiện 11 Hiệp định Thương mại tự do (FTA) đã ký cam kết. Mặt khác, các khoản nợ nước ngoài của Việt Nam không phải chỉ bằng USD, mà một phần khá lớn bằng đồng yên Nhật Bản và euro. Quy mô nợ công hiện khoảng 110 tỷ USD sẽ tăng lên tương ứng khoảng 5% nếu quy ra VND, đồng thời số lượng VND phải sử dụng để thanh toán các nghĩa vụ nợ nước ngoài cũng sẽ tăng tương ứng khoảng 5% song mức độ tăng không quá lớn, vẫn nằm trong sức chịu đựng của ngân sách nhà nước, trong khi cái giá phải trả để giữ không giảm giá VND cũng như lợi ích có thể thu được từ giảm giá mạnh VND có thể lớn hơn nhiều.
- Ông có thể đánh giá tác động của việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái đến chỉ số lạm phát trong thời gian tới?
- Thông thường, tỷ giá hối đoái là thước đo giá trị đối ngoại của một đồng tiền; đặc biệt đối với một nền kinh tế mở như Việt Nam khi tổng kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 150-160% GDP, cũng như về đầu tư khi vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam rất lớn. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam cũng mở rộng về các hoạt động vay mượn bằng đồng ngoại tệ với các nước khác, nên rõ ràng giá trị đối ngoại của VND chắc chắn sẽ tác động đến giá trị đối nội mà cụ thể là chỉ số lạm phát. Tuy nhiên, đến thời điểm này lạm phát của Việt Nam vẫn ở mức xấp xỉ 1% trong khi mục tiêu lạm phát cả năm 2015 là 5%. Như vậy, vẫn còn dư địa nhất định để có thể nói rằng tác động của tỷ giá hối đoái tới chỉ số lạm phát là không quá lo ngại. Từ thực tế này, chúng ta sẽ có những sự chủ động nhất định trong việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái, qua đó hỗ trợ cho các mục tiêu kinh tế vĩ mô khác.
Phải chủ động dẫn dắt thị trường
- Trong cuộc họp gần đây của Chính phủ, Thủ tướng đã chỉ đạo việc điều hành tỷ giá phải chủ động, linh hoạt theo tín hiệu thị trường, bảo đảm ổn định giá trị VND. Theo ông, thời gian tới chúng ta cần có những biện pháp gì để phát huy tác động tích cực và giảm ảnh hưởng tiêu cực trước các biến động về tỷ giá, lãi suất của các quốc gia trên thế giới đến Việt Nam?
- Việc điều hành tỷ giá chủ động, linh hoạt theo tín hiệu thị trường, bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam là rất cần thiết. Phương thức tốt nhất cho việc điều hành tỷ giá là không để DN bị sốc. Chính sách tỷ giá hối đoái chịu tác động của thị trường cả trong nước và nước ngoài. Tỷ giá nên có lộ trình trong dài hạn mở rộng biên độ, khi cần can thiệp thì ngân hàng dùng dự trữ ngoại hối. Tình hình hiện nay không nên để tỷ giá vận hành một chiều mà theo cách có lên có xuống hằng ngày, như vậy sẽ giảm bớt việc dự đoán chính sách. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý cũng có thể can thiệp vào thị trường bằng công cụ hành chính hay kinh tế. Và một biện pháp khác không kém quan trọng là cần phải nỗ lực ứng phó việc phá giá các đồng tiền bằng cách kêu gọi người Việt ưu tiên dùng hàng Việt, thay đổi chính sách đầu tư, nâng cao chất lượng hàng hóa sản xuất trong nước. Các cơ quan nhà nước phải giảm những thủ tục phiền hà, giảm chi phí về thời gian và tiền bạc giúp các DN có thể nâng cao năng suất lao động và năng lực cạnh tranh.
- Mức độ, cách thức và thời điểm tiếp tục điều chỉnh biên độ giao dịch tỷ giá hối đoái phụ thuộc vào điều gì, thưa ông?
- Các vấn đề này phụ thuộc vào diễn biến tiếp theo trên thị trường tiền tệ thế giới cũng như phản ứng chính sách của các quốc gia, nhất là của các cường quốc kinh tế để có thể tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa thiệt hại do việc phá giá tiền tệ gây ra cho kinh tế, thương mại và tài chính của Việt Nam. Bên cạnh các biện pháp ứng phó bảo vệ sức cạnh tranh về giá của hàng hóa xuất khẩu, cùng với công cụ sắc bén là chính sách tỷ giá hối đoái thì chúng ta cần phối hợp đồng bộ với các biện pháp và chính sách kinh tế tài chính vĩ mô khác nhằm bảo đảm an ninh kinh tế tài chính, tăng sức đề kháng của nền kinh tế trước các biến động khôn lường của kinh tế tài chính quốc tế, bảo đảm môi trường đầu tư, sản xuất kinh doanh ổn định, an toàn... Mỗi chính sách vĩ mô bao giờ cũng có hai mặt nên cần xem xét cụ thể, phần được có bù đắp đủ phần mất hay không.
- Vậy điều quan trọng hiện nay là phải tập trung vào các vấn đề mang tính dài hạn như thế nào?
- Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống tài chính tiền tệ thế giới, do vậy chúng ta cần xây dựng khả năng chống đỡ và phục hồi tốt trước các "cú sốc" để duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và xây dựng các khoảng đệm chính sách. Về trung và dài hạn, đặc biệt khi Việt Nam đã tham gia vào các FTA, việc điều chỉnh tỷ giá nên linh hoạt hơn nữa, từng bước công bố mức lạm phát mục tiêu thay vì lạm phát danh nghĩa nhằm có các phán đoán và quyết định chuẩn xác hơn. Điều quan trọng là, trong công tác hoạch định điều hành chính sách trong thời gian tới, NHNN cần tiếp tục theo dõi, đánh giá tác động của các điều chỉnh chính sách vừa qua đối với ổn định kinh tế vĩ mô, lòng tin của công chúng cũng như tiếp tục theo dõi các "cú sốc" từ bên ngoài khác có thể xảy ra để chủ động có biện pháp ứng phó kịp thời theo các yếu tố thị trường; đồng thời tập trung phát triển và duy trì lợi thế cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
- Cảm ơn ông về nội dung đã trao đổi!
(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.