Theo dõi Báo Hànộimới trên

Giao thông Hà Nội xưa và thời bao cấp

Nguyễn Ngọc Tiến| 24/01/2015 06:58

(HNM) - Đặc điểm của giao thông đô thị là đường phố như ô bàn cờ, dân đông, phương tiện lắm. Nhưng Hà Nội còn rắm rối hơn bởi có khu phố cổ. Trải qua thời gian, quản lý giao thông Hà Nội từng bước có sự thay đổi…


Quản lý giao thông trước năm 1954

Nếu lấy mốc năm 1883, thực dân Pháp chiếm hoàn toàn Hà Nội thì trước đó, cả huyện Thọ Xương (tương ứng với quận Hoàn Kiếm ngày nay) có 45,5km đường. Tuy nhiên, mặt đường lát đá hoặc gạch chỉ có phố Phúc Kiến (nay là Lãn Ông), Hàng Ngang và Mã Mây, còn lại là đường đất. Tại các phố buôn bán, người ta che phên, xếp hàng hóa lấn ra gần giữa đường. Khi xe ngựa chạy qua, người đi chợ buộc phải lội xuống những vũng bùn lõng bõng hai bên. Đi lại trong thành phố không có luật lệ nào, người đi bộ, kẻ khiêng cáng, xe bò đẩy hay xe ngựa cứ giữa đường mà đi. Xe ngựa, xe kéo muốn vượt phải dùng mồm la hét.

Tiếng leng keng tàu điện là một ký ức đẹp trong lòng người Hà Nội.


Việc đi lại lộn xộn gây mất mỹ quan nên ngày 6-6-1884, đốc lý (maire - thị trưởng) đã ra "Quy chế trị an và lục lộ của Hà Nội" trong đó cấm dắt súc vật trên phố, buổi sáng từ 7h đến 11h, buổi chiều từ 5h đến 8h tối. Quy chế cũng buộc người đi bộ phải đi nép vào hai bên, giữa đường dành cho người cưỡi ngựa và xe bò, xe ngựa không được cưỡi sóng đôi. Sau khi làm xong con đường từ khu nhượng địa Đồn Thủy vào thành năm 1885 (nay là Tràng Tiền, Tràng Thi, Điện Biên Phủ) có đường ray nằm giữa cho lừa kéo vũ khí, lương thực, vật liệu vào trong thành, hai bên rải đá răm dành cho xe ngựa, xe đẩy và người đi bộ. Chính quyền ra quy định: Xe ngựa chở khách phải có chuông, hai xe ngựa tránh nhau phải đi chậm. Để đi lại có nền nếp hơn, ngày 31-12-1892, Đốc lý Beauchamp ký "Quy chế bảo vệ trật tự trị an của Hà Nội với giao thông xe cộ". Theo quy chế này, xe cộ chở vật liệu phải có biển ghi họ tên; xe cộ ban đêm gây tai nạn thì chủ xe phải có trách nhiệm chăm sóc người bị nạn; buổi tối xe ngựa, xe bò đẩy phải treo đèn dầu sao cho người đi đường trông thấy từ xa, xe chở hàng cồng kềnh phải buộc miếng vải đỏ phía sau, kẻ vi phạm bị phạt theo "Luật Hình sự" của chính quốc. Cả thành phố có 56 cảnh sát gồm người Pháp và người Việt Nam làm nhiệm vụ duy trì an ninh, trật tự nhưng một phần ba trong số đó là sĩ quan và làm bàn giấy. Số còn lại đi tuần trên đường cả ngày lẫn đêm.

Tòa đốc lý cho nắn lại đường khu vực phố cổ, làm vỉa hè, cống thoát nước, cấm làm nhà lá, lấp ao hồ xây dựng các công trình, biệt thự tại phía đông và khu phố mới ở phía nam Hồ Gươm. Tính từ năm 1888 đến 1901, chiều dài của các con đường từ 45,5km đã tăng lên 67,6km và với dân số thành phố khoảng 10 vạn người thì đi lại là cả vấn đề. Phương tiện giao thông cũng thay đổi, thành phố không còn cáng hay võng, xe bò kéo thay vào đó là xe tay. Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương (gồm Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, Campuchia và Lào) thì Hà Nội chính thức áp dụng Luật Đường bộ của chính quốc, đi bên phải đường, xe đạp, xe ngựa phải có chuông… Đốc lý còn ra văn bản riêng cấm xe tay không được đỗ chờ khách ở phố Tràng Tiền, khu vực phía đông Hồ Gươm. Hằng ngày cảnh sát phạt tiền những người vi phạm. Cuối thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, Hà Nội có xe đạp, ô tô tuy số lượng chưa nhiều nhưng thành phố đã đề xuất toàn quyền Đông Dương cho mở rộng cầu Long Biên và được chấp thuận. Cầu được mở rộng mỗi bên thêm 1,5m mặt lát gỗ lim dành riêng cho ô tô, xe đạp, xe tay phần dành cho đi bộ và gánh gồng riêng; đồng thời có lan can cao bảo đảm an toàn. Công việc bắt đầu từ năm 1922 và kết thúc năm 1924. Dân số Hà Nội tăng lên 20 vạn đầu thập niên này, số phương tiện gia tăng đáng kể nên năm 1924 Thống sứ Bắc kỳ giao cho kiến trúc sư H.Hébrard quy hoạch toàn diện thành phố. Đến năm 1938 cả thành phố đã có 114km đường, trong đó nhiều đường lớn được trải nhựa. Tại một số ngã tư là nút giao thông quan trọng, Sở Lục lộ (nay là Sở Giao thông vận tải) cho chôn hai hàng đinh (bằng thép, đường kính 15cm nhô lên mặt đường 1cm) dành cho người đi bộ khi họ sang đường.

Kinh tế Hà Nội thực sự phát triển vào cuối những năm 1930, dân số tăng lên 40 vạn vào năm 1940 và "chiếc áo" Hà Nội trở nên chật trội nên Chính phủ Pháp quyết định mở rộng thành phố. Trong quy hoạch năm 1943, họ tính đến dựng các đèn tín hiệu giao thông nhưng thời điểm đó người Nhật đã vào Đông Dương và chính quốc đang trong chiến tranh nên quy hoạch bị dừng lại. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, sau đó Pháp tái chiếm nên quy hoạch không có cơ hội được thực hiện. Giai đoạn 1947-1954, tai nạn chết người trong thành phố chủ yếu do xe quân sự Pháp gây ra nhưng chính quyền cấm báo chí đưa tin. Tuy nhiên, các báo vẫn tìm cách đăng. Họ không viết cụ thể biển số mà lấp lửng xe IC (Indochine, IC là ký hiệu của xe quân sự Pháp ở Đông Dương) gây tai nạn nhưng người đọc hiểu là xe quân sự Pháp.

Đèn tín hiệu giao thông có từ bao giờ?

Hơn một năm sau khi hòa bình được lập lại ở miền Bắc, ngày 3-12-1955, Bộ Giao thông và Bưu điện ban hành Nghị định số 348-NĐ là "Luật Đi đường bộ". Tất cả các văn bản quản lý giao thông về đường bộ của chính quyền cũ không còn giá trị, miền Bắc thực hiện theo "Luật Đi đường bộ". Điểm khác biệt là "Luật Đi đường bộ" có điều khoản quy định về tốc độ đi lại trong thành phố, xe cộ được phép rẽ phải nhưng phải xin đường, song không có điều nào về đèn tín hiệu giao thông. Nhận thấy lợi ích của đèn tín hiệu và sớm hay muộn các đô thị ở miền Bắc sẽ phải lắp đặt nên ngày 27-5-1957, Bộ Giao thông và Bưu điện ra nghị định bổ sung thêm Điều 22 quy định tín hiệu đèn giao thông với ba màu: Đỏ, vàng, xanh. Nếu ô tô, xe máy, xe đạp vượt đèn đỏ, tùy theo mức độ sẽ bị "phê bình hoặc phạt tiền từ 400 đồng đến 1.000 đồng" (khi đó giá 1 cân gạo là 400 đồng).

Năm 1960, Hà Nội mới có ba nơi có đèn tín hiệu giao thông là ngã năm Cửa Nam, ngã tư Điện Biên Phủ - Trần Phú và ngã tư Tràng Tiền - Hàng Bài. Đèn tín hiệu có bốn mặt treo trên cao vào tâm ngã tư. Tại ngã năm Cửa Nam, phố Phan Bội Châu và Tràng Thi chỉ tính là một đường nên mặt đèn được lắp hướng về phía Tràng Thi. Ngã tư Điện Biên Phủ - Trần Phú tuy không đông nhưng khu vực này có nhiều cơ quan ngoại giao nước ngoài nên thành phố cũng lắp đèn tín hiệu. Dù Hà Nội đã có đèn tín hiệu nhưng đến ngày 10-11-1962, Bộ Công an mới có thông tư hướng dẫn. Theo thông tư, khi đèn đỏ, các phương tiện phải dừng trước hàng đinh thứ nhất, đèn vàng thì phương tiện đang qua ngã ba, ngã tư tiếp tục đi và các phương tiện gần tới phải dừng lại; đèn xanh bật thì phương tiện được rẽ phải, rẽ trái, hay quay đầu xe nhưng phải phát tín hiệu, ví dụ xe đạp phải vẫy tay xin đường.

Năm 1963, Hà Nội có thêm hệ thống đèn tín hiệu ở ngã tư Tràng Thi - Lý Thái Tổ và Trần Hưng Đạo - Bà Triệu. Tại ngã tư Tràng Thi - Lý Thái Tổ, đèn tín hiệu treo trên cao, bốt điều khiển nằm ở vỉa hè phía Hồ Gươm. Thời kỳ đó mặt đèn không có thủy tinh màu và cũng không có bóng đèn màu nên để có đèn màu đỏ người ta sơn bóng điện bằng sơn đỏ, màu vàng thì bằng sơn vàng. Hệ thống do công an ngồi trong bốt điều khiển bằng tay. Khi Mỹ đánh bom Hà Nội, người dân đi sơ tán, thành phố vắng người nên các đèn tín hiệu này không hoạt động, cũng là để tránh phát ra ánh sáng sẽ trở thành mục tiêu cho máy bay. Năm 1971, nhạc sĩ Phạm Tuyên cảm nhận được đèn đỏ, đèn xanh còn mang ý nghĩa khác: Dù chiến tranh nhưng mọi sinh hoạt của Hà Nội vẫn bình thường, Hà Nội không sợ bom Mỹ, Hà Nội vẫn hiên ngang nên ông sáng tác bài hát "Từ một ngã tư đường phố" với giai điệu tươi vui, ca từ lạc quan cứ như Hà Nội chưa từng bị bom đạn tàn phá.

Sau năm 1975, số ô tô, xe máy, xe đạp tăng nhanh nên thành phố lắp thêm nhiều đèn tín hiệu tại các ngã ba, ngã tư. Khác trước đó, hệ thống đèn tín hiệu được điều khiển tự động. Tuy nhiên, giai đoạn này Hà Nội thiếu điện trầm trọng nên điều khiển chủ yếu là các chiến sĩ cảnh sát giao thông găng tay trắng, thổi còi và khoát tay dẻo như múa.

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Giao thông Hà Nội xưa và thời bao cấp

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.