Theo dõi Báo Hànộimới trên

Làng Nguyệt Áng

ANHTHU| 06/11/2003 11:02

Nguyệt Áng (làng Nguyệt) là làng quê chiêm trũng nhỏ bé thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì. Đây là một làng cổ, có từ thời Hùng Vương dựng nước. Làng thờ Công Ba đại vương, theo thần phả là người em thứ 3 của Vua Hùng Vương thứ nhất, có công giúp dân mở mang làng xóm...

Văn chỉ làng được lập năm 1667 Nguyệt Áng (làng Nguyệt) là làng quê chiêm trũng nhỏ bé thuộc xã Đại Áng, huyện Thanh Trì. Đây là một làng cổ, có từ thời Hùng Vương dựng nước. Làng thờ Công Ba đại vương, theo thần phả là người em thứ 3 của Vua Hùng Vương thứ nhất, có công giúp dân mở mang làng xóm.

Tại đầu đình làng, năm 1993 đã phát hiện được ngôi mộ thuyền, bên trong có bộ tuỳ táng là bộ vũ khí bằng đồng rất phong phú. Niên đại của mộ là khoảng 2400 cách thời điểm được phát hiện. Các nhà khảo cổ học đã xác định chủ nhân của một ngôi mộ là một chiến binh thuộc tầng lớp trên của xã hội đương thời. Dường như ở đây có một liên hệ nào đó giữa Công Ba đại vương với người chiến binh chủ nhân ngôi mộ cổ ?

Tuy là làng chiêm trũng nhỏ bé, nhưng thời phong kiến, Nguyệt Áng nổi danh là làng khoa bảng với 11 người đỗ đại khoa, gồm 1 Trạng nguyên, 1 Thám hoa, 9 Tiến sĩ, trong đó có 5 người thuộc dòng họ Nguyễn Đình là Nguyễn Đình Trụ (đỗ năm 1656), anh ruột là Nguyễn Quốc Trinh (Trạng nguyên, 1659) và hai con là Nguyễn Đình Bách (1683), Nguyễn Đình Úc (Thám hoa, 1700) cùng cháu tằng tôn của Nguyễn Quốc Trinh là Nguyễn Đình Quỹ (1715) ; 3 người họ Lưu là Lưu Tiệp (1772) và em ruột (Lưu Định - 1775) cùng cháu nội là Lưu Quỹ (1835).

Làng còn có 29 người đỗ trung khoa (hương cống, cử nhân), gồm 17 người họ Nguyễn Đình, 8 người họ Lưu và 4 người họ Nguyễn Danh. Nhiều trường hợp, cha con, anh em, bố con cùng đỗ, tiêu biểu nhất là gia đình Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh: 4 người con của ông đều đỗ Hương cống; còn sinh đồ, tú tài thì rất nhiều.

Trong những người đỗ đạt của làng Nguyệt, nhiều người thật sự có tài, đem hết tài năng phụng sự đất nước. Tiêu biểu nhất là Nguyễn Quốc Trinh (1625 - 1674). Năm 1667, ông cầm đầu đoàn sứ bộ nhà Lê sang đàm phán thành công với nhà Thanh cho gộp hai kỳ tiến cống (3 năm một kỳ) làm một, giảm được phần lớn sự tốn kém cho triều đình và nỗi vất vả cho các đoàn sứ bộ. Sau ông làm quan đến Bồi tụng (Phó Tể tướng), là người tin cẩn của chúa Trịnh Tạc. Tuy vậy ông là người khẳng khái, dám chỉ ra điều phải trái của chúa trước triều thần.

Người thứ hai là Nguyễn Đình Trụ (1627 - 1703). Sau khi về hưu, ông về mở trường dạy học, học trò đông tới hàng nghìn. Hơn 70 người sau đó đỗ tiến sĩ và hương cống, thành đạt trên đường hoạn lộ. Thời bấy giờ coi ông là một "công phái thầy học".

Người thứ ba là Lưu Quỹ (1811 - ?). Ông nổi tiếng ông là người thẳng thắn, dám tâu việc can ngăn vua nên bị giáng chức. Tháng 2 năm Tân Sửu (1841), Vua Thiệu Trị lên ngôi, Lưu Quỹ đã cùng Khoa đạo Nguyễn Bỉnh Đức dâng sớ khuyên Vua lưu ý đến 10 điều sách lược trị nước, trong đó, 2 điều được vua tâm đắc nhất là thận trọng trong sự ham chuộngcẩn thận trong dùng người.

Nguyệt Áng vẫn giữ được hệ thống đình, chùa, văn chỉ. Văn chỉ do Trạng nguyên Nguyễn Quốc Trinh cùng em là Tiến sĩ Nguyễn Đình Trụ lập năm 1667, trước khi ông đi sứ. Tại đây còn 2 tầm bia đá quý (dựng năm 1667, 1876), ghi tên những người đỗ đạt của làng, biểu tượng cho truyền thống hiếu học và khoa bảng, là niềm tự hào của dân làng. Lễ hội hàng năm được tổ chức vào 2 dịp chính: 12 tháng 2 (ngày hoá của thần) và 15 tháng 5 là ngày kỳ phúc. Lệ tháng 2 có rước bánh dày.

TS. Bùi Xuân Đính

(0) Bình luận
Đừng bỏ lỡ
Làng Nguyệt Áng

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.