Theo dõi Báo Hànộimới trên

Làng Đình Quán

LANHUONG| 20/12/2004 11:23

(HNMĐT) - Làng Đình Quán ở liền kề làng Kiều Mai, trước Cách mạng Tháng Tám 1945 cùng với ba làng : Kiều Mai, Ngoạ Long, Nguyên Xá hợp thành xã Phúc Diễn, nay thuộc xã Phú Diễn huyện Từ Liêm. Có hai thuyết giải thích tên của làng. Một thuyết cho ràng, buổi đầu, một tốp cư dân trên đường đi tìm đất dựng làng, thầy nơi đây đất đẹp liền dừng (Đình) lại, dựng nhà để ở (Quán).

Thuyết khác cho rằng, xưa ngôi đình làng do một vị quan Nghè họ Lê xây dựng, gọi là Đình Quan, sau gọi chệch là Đình Quán. Có thuyết giải thích rằng, ông Nghè dựng đình này là Dương Văn An (1514 - ?), quê ở làng Phúc Tuy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, trú quán ở xã Phú Diễn, đỗ Tiến sĩ khoa Đinh Mùi niên hiệu Vĩnh Định đời Mạc Phúc Nguyên (1547), làm quan đến Thượng thư, tác giả của cuốn sách nổi tiếng “Ô châu cận lục” viết về vùng đất Thuận Hóa. Dương Văn An không có con nên lấy một người họ Lê làm con nuôi. Ông bỏ tiền dựng đình cho làng Đình quán và một nhà thờ ông ở bên cạnh. Sau khi nhà Mạc bị diệt, người con nuôi đó lấy lại họ cũ.

ĐìnhQuán là một làng nhỏ, năm 1926 cả làng chỉ có trên 50 hộ với 73 suất đinh (khoảng gần 200 nhân khẩu), dân đinh chia làm hai giáp : Đông và Tây. Xưa kia làng có đến 219 mẫu ruộng, song hầu hết nằm trong các gia đình thuộc thành phần địa chủ, đa số nông dân trong làng chỉ chiếm 25 mẫu 8 sào. Dân làng phải làm thêm các nghề : hàn nồi đồng, bán đồng nát, mua bán lông gà lông vịt.

Mặc dù là làng nhỏ, nhưng Đình Quán có đủ đình chùa, văn chỉ. Đình làng ngoài thờ Bạch Hạc Tam Giang còn thờ vị thành hoàng có duệ hiệu là Tuy Dụ Diễn Khánh đại vương. Hội làng diễn ra từ mồng 10 đến 12 tháng Hai. Hiện trong đình còn lưu 11 đạo sắc của thần. Đình được trùng tu lớn vào đời Vua Lê Thuần Tông (1732 - 1735). Người có công đứng ra tu bổ đình là Hoàng thân Trạc Quận công Lê Thân ý. Ông là con của bà Chiêu Nghi người làng Đình Quán, lấy Vua Lê Thuần Tông. Do có công với làng nên ông Thân ý được dân làng tôn làm hậu thần.

Bia ghi lại việc bầu hậu này hiện vẫn còn ở đình. Đây là tấm bia lớn, cao đến 170 cm, rộng 80 cm, được lập ngày lành tháng Trọng Xuân (tháng Hai) năm Bính Tý niên hiệu Cảnh Hưng (1756). Điều đặc biệt của tâm bia này là bài văn bia do chính vua Lê Hiển Tông -anh cùng cha khác mẹ của ông Thân ý soạn. Bài văn bia ca ngợi công đức của ông Thân ý và thể thức cúng lễ ông vào các ngày : 12 tháng Bảy (ngày sinh), Tiết Trung thu và 15 tháng 11 (ngày giỗ). Việc nhà vua soạn bài văn bia hậu thần cho một làng là hiện tượng hy hữu trong lịch sử Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng như trên văn bia làng xã.

Làng Đình Quán còn có ngôi chùa Bà Bông, tên chữ là Phúc Quang tự, kiến trúc theo kiểu chữ “Đinh”.Trong chùa còn nhiều di vật quý như chuông đồng đúc năm Gia Long thứ 18 (1819), 8 tấm bia, trong đó 3 tấm lớn ghi việc trùng tu chùa vào các niên hiệu Quang Hưng (1578 – 1599), Chính Hòa (1680 - 1705) và Gia Long (1802 - 1819). Trong các tấm bia này đáng lưu ý có bia lập ngày lành tiết Trung thu năm Nhâm Thìn niên hiệu Quang Hưng (1592) do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan soạn. Bài văn bia cho biết, chùa Bà Bông là danh thắng vào bậc nhất ở huyện Từ Liêm. Nhà sư trụ trì là Lê Pháp Đăng quê ở huyện Quảng Xương, Thừa tuyên Thanh Hoa đứng ra tu sửa từ năm Mậu Tý (1588) đến năm Nhâm Thìn (1592) thì hoàn thành.

TS. Bùi Xuân Đính

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Làng Đình Quán

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.