Theo dõi Báo Hànộimới trên

Đừng bao giờ có chiến tranh!

Nguyễn Ngọc Tiến| 30/12/2012 05:49

(HNM) - Từ đêm 18-12-1972, không quân Mỹ bắt đầu thực hiện chiến dịch Linebecker II đưa siêu pháo đài bay B-52 ném bom rải thảm các tỉnh miền Bắc nhưng trọng điểm là Hà Nội vì Hà Nội là trái tim của cả nước và dù bị không quân Mỹ ném bom ác liệt từ năm 1966 nhưng Hà Nội vẫn hiên ngang.

Với mục đích đánh phá để Hà Nội phải khuất phục, đế quốc Mỹ hy vọng sẽ dập tắt ý chí của người Việt Nam nhằm chiếm ưu thế trên bàn đàm phán tại Hội nghị Paris. Đây là chiến dịch ném bom dữ dội nhất trong chiến tranh Việt Nam và là một trong những cuộc tập kích đường không có cường độ cao nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Từ đêm 18-12 đến đêm 29-12-1972, Mỹ đã ném khoảng 40 nghìn tấn bom, nhiều hơn số bom Mỹ ném xuống miền Bắc từ năm 1969 đến năm 1971. Các tỉnh Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Bắc, Hà Tây, Hòa Bình... đều hứng chịu nhưng nhiều nhất là Thủ đô Hà Nội. Không chỉ 4 khu phố nội thành: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Đống Đa, Hai Bà Trưng mà cả 4 huyện ngoại thành: Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Đông Anh đều bị bom Mỹ, trong đó xã Uy Nỗ (huyện Đông Anh) bị bom cày xới trong 11 ngày đêm, bà con đã đi sơ tán nên số người thiệt mạng không nhiều nhưng 80% nhà cửa bị phá hủy, 70% diện tích đất trồng trọt có hố bom. Tại Lỗ Khê (Đông Anh), đêm 18-12, bom B-52 vừa dứt, bà con làng xóm đã lao vào cứu người ở các hầm sập nhưng đã không cứu được người vợ đảm đang của anh Nguyễn Văn Tý cùng 5 đứa con nhỏ, đứa lớn nhất chưa đến 15 tuổi. Cũng tại huyện Đông Anh, đêm 26-12, bom Mỹ ném xuống Cổ Loa giết chết 2 đứa con anh Lý khi đang trú ẩn dưới hầm, trong tư thế hai anh em ôm nhau để che chắn cho nhau. Nhưng xác thịt con người làm sao có thể cản được thứ vũ khí giết người man rợ! Rồi Yên Viên, Ngọc Thụy của huyện Gia Lâm. Ở huyện Từ Liêm, đêm 18, rạng ngày 19-12, bom rơi trúng nhà thầy Chu Bá Thước, giáo viên Trường cấp II Mai Dịch đã cướp đi sự sống của 2 vợ chồng thầy cùng 4 đứa con nhỏ. Ở khu vực nội thành, một vệt bom B-52 kéo dài từ ga Văn Điển, qua ga Giáp Bát đến các khu dân cư gồm: Làng Tám, Tương Mai (thuộc khu Hai Bà Trưng) đến làng Phương Liệt, Bệnh viện Bạch Mai, phố Khâm Thiên (thuộc khu Đống Đa) và ga Hàng Cỏ (khu Hoàn Kiếm). Phía bắc thành phố là khu lao động An Dương (khu Ba Đình), khu tập thể Mai Hương (khu Hai Bà Trưng).

Bệnh viện Bạch Mai bị B-52 tàn phá và Bệnh viện Bạch Mai ngày nay.


Các khối 42, 43, 46, 47 phố Khâm Thiên, bị hủy diệt hoàn toàn, nhà trẻ, mẫu giáo, đình Tương Thuận, cơ sở y tế bị san phẳng. Cho đến ngày hôm nay, mỗi khi kể lại chuyện đêm 26-12-1972 ông Nguyễn Văn Cầu không thể nào cầm được nước mắt vì bom Mỹ đã cướp đi vợ, con ông và gia đình người em ruột cùng hai đứa cháu còn bé. Công dân ưu tú Thủ Đô, nhà nghiên cứu văn hóa Giang Quân năm nay đã 85 tuổi vẫn nhớ như in cửa hàng sách nhà mình bị đổ nát thế nào, những cuốn sách trong đó có sách cho thiếu nhi văng ra trong bán kính mấy chục mét. Trận bom đêm 26-12-1972, dân phố Khâm Thiên mất mát quá lớn: 278 dân thường chết thảm, 290 người bị thương, 178 đứa trẻ thành trẻ mồ côi, trong đó có rất nhiều bé mồ côi cả cha lẫn mẹ. Nhà của giáo sư sử học Trần Quốc Vượng tan hoang, nhà của nhạc sĩ Phú Quang cũng gập xuống và từ nơi sơ tán trở về 3 ngày sau Phú Quang mới tìm thấy xác người bạn thân. Bây giờ đi qua phố Khâm Thiên, dấu vết đổ nát 40 năm trước không còn nhưng đài tưởng niệm với bức tượng người phụ nữ hai tay bế xác đứa con, chân đạp lên quả bom (chính là nguyên mẫu người phụ nữ ở số nhà 47 bị chết ngay chân cầu thang) vẫn khắc ghi những nỗi đau không thể nguôi quên.

Trước đó đêm 22-12, bom Mỹ đã đánh sập Khoa Tai Mũi Họng, Khoa Nhi của Bệnh viện Bạch Mai nhưng nặng nhất là Khoa Da liễu, những tảng bê tông lớn chặn lối xuống hầm C3. Xác của chị Hoàng Thị Thoa chắn lối xuống hầm, Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai khi đó là bác sĩ Đỗ Doãn Đại đã ra lệnh trong nước mắt: cắt xác của chị để mở đường xuống hầm cứu mấy chục cán bộ nhân viên, bệnh nhân đang thiếu không khí và lấy chỗ tiếp sữa, nước trong khi chờ đội cứu hộ của thành phố cắt phá các tấm bê tông. Hai ngày sau, bác sĩ Đỗ Doãn Đại phải chứng kiến cái chết của cô học trò là Đinh Thị Thúy mà không thể cứu được. Trước khi tắt thở, chị Thúy chỉ nói được một câu: "Em chào thầy, em đi". Sau này bác sĩ Đỗ Doãn Đại kể rằng dù ghép lại xác của chị Thoa và liệm vào quan tài nhưng đó là quyết định khó khăn và đau đớn nhất trong cuộc đời làm nghề y của ông. Cũng đêm 22-12 tại Bệnh viện Bạch Mai, bom Mỹ đã cướp đi quyền được làm cô dâu của chị Đào Thị Khuyến, nhà ở phố Hàng Khoai là kỹ thuật viên Khoa Da liễu. Đêm đó, chị mang tập thiếp cưới đến bệnh viện tranh thủ giờ rảnh rỗi viết thiếp mời khách tới dự đám cưới của mình tổ chức vào ngày 2-1-1973.

Trong bài thơ "Việt Nam máu và hoa" của nhà thơ Tố Hữu có câu: Trắng khăn tang em chẳng khóc đâu/Hỡi em gái mất cha mất mẹ/Nước mắt em làm nhòa mặt quân thù/Em phải bắn trúng đầu giặc Mỹ... Đó là những câu thơ viết về chị Phạm Thị Viễn, pháo thủ trong đội tự vệ của Nhà máy Cơ khí Mai Động đã cùng đồng đội bắn rơi chiếc máy bay F-111A trong đêm 22-12. Bà Viễn dẫn tôi đi thắp hương cho người cha đã chết bom chỉ sau mấy ngày đội tự vệ của bà bắn rơi chiếc F-111A. Bà nấc lên khi kể lại cha bà chết mấy ngày không tìm thấy xác và khi xác chết nổi lên ở một cái ao trong làng Tương Mai, bà móc túi thấy tấm chứng minh thư mới biết chắc đó là xác cha mình. Cô chị cùng các em khi đó đang độ tuổi đi học không còn nước mắt khóc khi bà con khối phố chôn cất người cha thân yêu. Trước đó, năm 1967, chính chị đã đau đớn chôn mẹ khi mẹ chị đi bán rau ở chợ và đã nhường hầm trú ẩn cho người khác để rồi bị mảnh bom tiện ngang người... Bây giờ thì Tương Mai trở thành phường, nhà cửa san sát đè lên hố bom xưa và bà Viễn cũng đã về hưu với công việc hàng ngày là trông cháu, bà bận bịu suốt ngày nhưng mỗi khi rảnh rỗi thì chuyện cũ cứ hiện về.

Trong căn nhà cao tầng khang trang ở phố An Dương (quận Tây Hồ) bà Nguyễn Thị An đã dành hẳn một căn phòng làm nơi thờ những người thân vô tội bị chết thảm trong trận bom B-52 của không quân Mỹ ném xuống khu lao động An Dương đêm 21-12-1972. Bà kể lại câu chuyện xảy ra 40 năm trước mà như nó vừa mới diễn ra trong nước mắt đầm đìa. Một quả bom rơi vào căn nhà chính đã cướp đi 5 người trong đó có cha mẹ chồng, 2 con và cô em chồng. Vì số người chết quá nhiều, thành phố không đủ quan tài nên gia đình, chòm xóm đành phải chôn 4 người trước và hôm sau khi người ta chở quan tài đến gia đình mới chôn nốt cho cô em.

Trong những ngày cuối tháng 12 vừa qua, tôi đến gần hết các khu vực bị đánh bom cách đây 40 năm, cuộc sống đã hồi sinh từ lâu, không còn nhiều dấu tích để nhận ra tội ác năm xưa. Hỏi những người từng chứng kiến các cảnh tượng bom rơi, đạn nổ, xác máy bay Mỹ bị bắn cháy sáng trời Hà Nội và tham gia cứu người, ai cũng bảo, người Hà Nội không chỉ gan dạ, kiên cường mà còn cưu mang lo toan cho nhau vượt qua hiểm nguy.

Quên quá khứ để hướng đến tương lai nhưng quá khứ đâu có dễ quên vì quá khứ hào hùng nhưng cũng đầy bi thương, dù đã 40 năm nhưng các gia đình mất người thân vẫn day dứt, ám ảnh và chúng ta cũng day dứt. Mong sao đừng bao giờ có chiến tranh...

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Đừng bao giờ có chiến tranh!

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.