Thứ Năm, 05/06/2025
Đang hiển thị
Tỉnh thành khác
Gần đây vài tác giả viết về hoạ sĩ Nam Sơn đã xác định, ông được công nhận là một trong hai người sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương. Ngay cuốn sách Mỹ thuật Thủ đô Hà Nội thế kỷ XX của Quang Phòng và Quang Việt cũng khẳng định điều đó. Công nhận Nam Sơn là người đồng sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, người góp phần quan trọng phục hưng nền mỹ thuật truyền thống Việt Nam đã đưa hoạ sĩ Nam Sơn lên bậc “khai quốc công thần” nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Hoạ sĩ Nam Sơn
Ngày 27-10-1924, Toàn quyền Đông Dương Merlin đã ký quyết định thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương. Điều I của quyết định ghi: “Thành lập ở Hà Nội một Trường Mỹ thuật Đông Dương thay Trường Đại học Nghệ thuật và Hội hoạ”.Ngày 1-10-1925, Trường Mỹ thuật Đông Dương khai giảng khoá đầu tiên do hoạ sĩ Victor Tardieu làm giám đốc, với 10 sinh viên ngành hội hoạ và kiến trúc. Từ đó, ông Victor Tardieu được biết tới như là người sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương, và hoạ sĩ Nguyễn Nam Sơn là người phụ tá cho Ban giám hiệu nhà trường.
Gần đây, một vài tác giả khi viết về hoạ sĩ Nam Sơn đã xác định, ông được công nhận là một trong hai người sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương. Ngay cả cuốn sách Mỹ thuật Thủ đô Hà Nội thế kỷ XX của Quang Phòng và Quang Việt, rất công phu, cũng khẳng định điều đó, nhưng không thấy ghi hoạ sĩ Nguyễn NamSơn được công nhận là người đồng sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương. Họa sĩ Trần Duy, cựu sinh viên của trường này đã cho tôi xem một tư liệu rất quý, nguyên bản bằng tiếng Pháp. Đó là bản báo cáo năm 1931, chữ in, của Tổng Nha học chính Đông Dương và ba trường Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội, Nông Pênh, Biên Hoà gửi Chính phủ Pháp, in tại Nhà in Viễn Đông, Hà Nội. Bản báo cáo có một đoạn về hoạ sĩ Nam Sơn như sau: “Việc dạy hìnhhoạ và trang trí do một giáo sư chuyên ngành bậc hai, ông Nam Sơn, là một trong hai người sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương. Ông Nam Sơn đã đạt được những thành quả đáng khen ngợi trong việc đào tạo, giáo dục và đóng góp một phần quan trọng trong việc phục hưng nền mỹ thuật truyền thống An Nam, đó cũng là chủ thuyết và hiến chương của nhà trường”
Việc Pháp công nhận hoạ sĩ Nam Sơn là người đồng sáng lập Trường Mỹ thuật Đông Dương và là người góp phần quan trọng trong việc phục hưng nền mỹ thuật truyền thống Việt Nam đã đưa vị trí của hoạ sĩ Nam Sơn lên bậc “khai quốc công thần” nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại.
Chúng tôi đã tìm gặp ông An Kiều, kỹ sư điện, con trai thứ của hoạ sĩ, và được ông cung cấp những tư liệu về cha mình. Ông còn cho chúng tôi xem bàn tay phải của hoạ sĩ Nam Sơn được ông đổ khuôn, đúc đồng khi người còn sống. Và, với những tư liệu đó, chúng tôi đã viết bài báo này.
Nam Sơn là nghệ danh, còn tên thật của ông là Nguyễn Văn Thọ, sinh năm 1890, quê gốc Yên Lãng, Vĩnh Yên, dòngdõi cụ Nguyễn Duy Thời, Nguyễn Văn Hiểu, tiến sĩ thời Hậu Lê, phụ tử đồng triều. Dòng tộc gia đình hoạ sĩ nay cũng không ít người nổi tiếng: Cố Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Văn Huyên, giáosư Nguyễn Quang Riệu, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp CNRS, giáo sư bác sĩ ngoại khoa Nguyễn Quyền…
Lão nông
Tác phẩm sơn mài của họa sĩ Nam Sơn
Ngay từ nhỏ, Nam Sơn đã thích vẽ và có năng khiếu vẽ. Ông học chữ Hán với các nhà nho nổi tiếng lúc đó như cụ Phan Văn Bình, cụ Nguyễn Sĩ Đức và chính các cụ đã khai mở cho ông lối vẽ Á Đông.Học xong Trường Bưởi, 18 tuổi, Nam Sơn trở thành công chức Sở Tài chính, đồng sự với nhà thơ trào phúng Tú Mỡ. Lần đầu tiên Nam Sơn được biết tới như một hoạ sĩ minh hoạ cho các sách Quốc văn giáo khoa thư, Cách trí giáo khoa thư của học giả Trần Trọng Kim, Đỗ Thận. Từ đó nhiều tờ báo trong nước đã mời ông cộng tác minh hoạ và năm 1923, Nha Học chính thức đã mời ông chuyên trách trình bày và trông nom các ấn phẩm sách giáo khoa.
Nam Sơn không chỉ minh hoạ, ông còn vẽ tranh sơn dầu. Một trong những tranh đó còn được lưu giữ tới ngày nay là bức chân dung cụ Nguyễn Sĩ Đức vẽ năm 1923. Lối vẽ hiện thực, diễn đạt chính xác nhưng không gò bó, kỹ thuật sơn dầu vững vàng. Bức tranh đã chứng tỏ năng lực mỹ thuật xuất sắc của một người chưa được đào tạo nghề vẽ, và đó cũng là một chứng tỏ cho Nam Sơn khi ông được gặp hoạ sĩ Victor Tardieu để trở thành người cộng sự đáng nể với hoạ sĩ này, mặc dù hai người chênh nhau tới 20 tuổi.
V.Tardieu sinh năm 1870 tại Lyon, đến Hà Nội năm 1923, sau khi nhận Giải thưởng Đông Dương năm 1922. Trước giải thưởng này, ông đã đạt nhiều giải thưởng mỹ thuật quan trọng khác, trong đó có Giải thưởng quốc gia Pháp. Là một hoạ sĩ danh tiếng, được đào tạo chính quy, V.Tardieu đã truyền đạt cho người cộng sự của mình bài bản của nghề vẽ và Nam Sơn đã giúp người thầy mỹ thuật đầu tiên của mình tìm hiểu văn hoá Việt Nam qua các chuyến thăm viếng đình chùa và các làng nghề thủ công vùng châu thổ sông Hồng. Cũng có khi, trong những bộ phẩm phục, triều phục hoặc nông phục, Nam Sơn đã làm mẫu vẽ cho V.Tardieu thực hiện các bức tranh dán tường khổ lớn, có bức hơn 70 mét vuông ở Trường Đại học Y khoa.
Chính trong những lúc gần gũi, thân mật với họa sĩ V.Tardieu, chàng thanh niên giàu tâm huyết mỹ thuật Nam Sơn đã đề xuất việc thành lập một trường dạy vẽ. Từ ngỡ ngàng, V.Tardieu đã dần dà thấu hiểu nhiệt huyết và khả năng mỹ thuật của người Việt, và ông dẹp bỏ những việc riêng trong gia đình để hình thành rõ nét một trường mỹ thuật theo mô hình của người Pháp.
Theo họa sĩ Trần Văn Cẩn, cựu sinh viên Mỹ thuật Đông Dương khoá VII (1931-1936), thì V.Tardieu có họ hàng với Thủ tướng Pháp bấy giờ, nên rất được chính giới Pháp ở Hà Nội trọng nể. Bởi vậy, đề nghị thành lập ở Hà Nội một trường đào tạo mỹ thuật đã dễ dàng chấp nhận. (Cũng cần biết rằng năm 1927, một nhóm người Pháp đã thành lập “Viễn Đông Nhạc viện” nhưng do không có thế lực, không được Chính phủ Pháp cấp kinh phí nên “Viễn Đông Nhạc viện” chỉ tồn tại được hai năm và đào tạo được một số nhạc công, trong đó có nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, sau này là Chủ tịch Hội Nhạc sĩ Việt Nam).
Cũng nhờ thế lực ấy mà V.Tardieu đã vận động cho Nam Sơn được sang Pháp chuẩn bị việc thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương và đào tạo mỹ thuật. Nhờ vậy Nam Sơn đã học tại Trường Mỹ thuật quốc gia và Trường Nghệ thuật trang trí quốc gia Pháp trong gần một năm. Cũng trong thời gian này, ông có thêm những người bạn mới mà sau này đã trở thành danh hoạ, đó là Từ Bi Hồng người Trung Quốc và Foujita người Nhật Bản. Và mùa thu năm 1925, Nam Sơn đã trở về Hà Nội cùng với hoạ sĩ Joseph Inguimberty để lo việc tuyển sinh khoá đầu tiên trong khi Tardieu phải ở lại Paris vì ốm. Vậy là toàn bộ công việc tổ chứctuyển sinh, chấm thi năm đó (với hơn 500 thí sinh toàn Đông Dương), hoạ sĩ Nam Sơn phải tham gia, quán xuyến. Hoạ sĩ Công Văn Trung, cựu sinh viên khoá I của trường nhớ lại, do không nắm được quy chế tuyển sinh, ông đã gửi hồ sơ sang Pháp nên không được dự thi đúng kỳ hạn. Chính hoạ sĩ Nam Sơn là người được trường giao nhiệm vụ xemxét trường hợp của thí sinh muộn mằn này. Thế là Nam Sơn được quyền ra đề thi, chấm thi và kết quả Công Văn Trung đã trúng tuyển. Năm 1930, Nam Sơn cho in cuốn Hội hoạ Trung Hoa bằng tiếng Pháp nhằm cung cấp thêm hiểu biết cho sinh viên. Đó là cuốn sáchmỹ thuật đầu tiên của một người Việt biên soạn và xuất bản.
Mặc dù có công lớn trong việc thành lập Trường Mỹ thuật Đông Dương nhưng mãi tới năm 1927, ông mới được bổ nhiệm làm giáo sư chuyên ngành theo nghị định của Nha Học chính. V.Tardieu mất năm 1937, thọ 67 tuổi, lúc đang làm hiệu trưởng. Còn Nam Sơn vẫn tiếp tục giảng dạy cho đến năm 1945, khi trường ngừng hoạt động.
Năm 1957, Hội Mỹ thuật Việt Nam được thành lập, hoạ sĩ Nam Sơn được bầu làm uỷ viên Ban chấp hành. Ông mất năm 1973 tại Hà Nội. Thọ 83 tuổi.
Trong tất cả các trường đại học và cao đẳng mà Pháp thành lập tại Việt Nam, hoạ sĩ Nam Sơn là người Việt duy nhất được công nhận là người đồng sáng lập một trường cao đẳng, nơi đã đào tạo được nhiều hoạ sĩ danh tiếng. Trong số 18 hoạ sĩ được Giải thưởng Hồ Chí Minh thì 17 người xuất thân từ Trường Mỹ thuật Đông Dương, và tất cả số họ đều được hoạ sĩ Nam Sơn góp phần đào tạo. Với những công lao to lớn đối với nền mỹ thuật Việt Nam, Hội Mỹ thuật Việt Nam nên đề nghị với cơ quan chức năng cho một đường phố Hà Nội mang tên Nam Sơn.
T.D(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.