Theo dõi Báo Hànộimới trên

Lương Văn Can và người vợ tài đức vẹn toàn

TUYETMINH| 21/07/2005 15:06

Lương Văn Can sinh năm 1854, người làng Nhị Khê. Do sự cố gắng của bố, mẹ thời niên thiếu đã được theo học trường của cụ Cử làng Vũ Thạch là một trường rất nổi tiếng, có tới ngàn học trò các nơi về theo học, ngày nay là nhà số 7 phố Trường Thi, Hà Nội. Năm Lương Văn Can 17 tuổi đã thi Hương vào Tam trường; năm 21 tuổi thì đỗ cử nhân; sau, vì bố mất, nên ông không đi thi Hội nữa.

Lương Văn Can sinh năm 1854, người làng Nhị Khê. Do sự cố gắng của bố, mẹ thời niên thiếu đã được theo học trường của cụ Cử làng Vũ Thạch là một trường rất nổi tiếng, có tới ngàn học trò các nơi về theo học, ngày nay là nhà số 7 phố Trường Thi, Hà Nội. Năm Lương Văn Can 17 tuổi đã thi Hương vào Tam trường; năm 21 tuổi thì đỗ cử nhân; sau, vì bố mất, nên ông không đi thi Hội nữa. Sau khi đỗ cử nhân gia đình đã đi hỏi, cưới vợ cho Lương Văn Can, chỉ biết tên là Lê Thị Lễ con gái tú tài Lê Anh Sơn ở làng Bình Vọng, chứ hai người chưa quen biết gì nhau.

Tuy vậy, về chung sống với nhau, hai người đã thật sự hạnh phúc, và đã cùng nhau vượt qua rất nhiều gian nan, khổ nạn do thời cuộc đưa đến. Năm 25 tuổi, thấy việc nước càng ngày càng nát, Lương Văn Can đã mở trường dạy học, ở tại số 4 Hàng Đào. Bà Lê Thị Lễ thì có cửa hàng Quảng Bình An ở phố Hàng Ngang. Lương Văn Can luôn trăn trở về cuộc sống, về đất nước, và ông đã nghĩ tới những bậc thức giả tiến bộ của các nước, tìm học ở họ những điều có thể làm lợi cho nước mình. Ông đã đọc các sách của Montesquieu, Voltaire…và sách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu… Ông rất thích những tư tưởng nhân đạo, dân quyền, tự do, bình đẳng, và đã làm một bài thơ ca ngợi Cách mạng Pháp 14 - 7 - 1789. Sau, Lương Văn Can cùng bạn bè tìm cách lập một trường học theo kiểu Khánh Ưng nghĩa thục nước Nhật do Phúc Trạch sáng lập ra để làm cuộc cách mạng về văn hóa cho nhân dân Nhật. Và rồi, năm 1907, Lương Văn Can là người cùng sáng lập Đông Kinh nghĩa thục mà Nguyễn Quyền là hiệu trưởng. Trường đặt ở số 10 phố Hàng Đào. Sách giáo khoa biên soạn để dạy ở trường là những cuốn như Nam quốc giai sự, Nam quốc vĩ nhân, Nam quốc địa dư…trong đó có những bài công nhiên ca ngợi những cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Đông Kinh nghĩa thục hoạt động chưa được một năm thì đã bị đóng cửa. Và từ đó, lúc nào cũng có mật thám lảng vảng trước cửa đình Hàng Bạc để nhòm ngó sang nhà số 4 Hàng Đào, nơi gia đình Lương Văn Can sống.

Đông Kinh nghĩa thục bị đóng cửa, rồi hiệu trưởng Nguyễn Quyền và giáo sư Lê Đại… bị pháp bắt đi đầy. Lương Văn Can bị gọi ra tòa, nhưng ông dùng lý lẽ cứng cỏi bác lại, nên chúng không thể khép tội được. Trường bị đóng cửa, các khoản nợ nần do công việc dở dang khoảng 7.000 đồng bạc Đông Dương. Lương Văn Can còn chưa biết thu xếp cách nào thì vợ ông không chút ngần ngại, đã bán ngay cửa hàng Quảng Bình An để trang trải hết. Cửa hàng Quảng Bình An đó là món hồi môn do bố mẹ cho khi bà Lê Thị Lễ đi lấy chồng. Và, bà đã bán đi, "để ông theo trọn con đường phụng sự Tổ quốc…"( Lương gia thế phả đã ghi như vậy). Một năm sau, con trai cả của ông bà là Lương Trúc Đàm bị bệnh chết; hai con thứ là Lương Nghị Khanh và Lương Ngọc Quyến trốn sang Nhật theo phong trào Đông Du của chí sĩ Phan Bội Châu. Khi xảy ra vụ đầu độc quân Pháp ở Hà Nội, Lương Văn Can liên tục bị gọi lên Sở Liêm Phóng xét hỏi.

Đến năm 1913, có vụ ném lựu đạn vào khách sạn Hà Nội, thực dân Pháp bắt bớ mấy trăm người, trong đó có Lương Văn Can. Chúng đày ông biệt xứ 10 năm tại Phnômpênh, Campuchia. Dồn dập những mất mát đau thương như vậy, bà Lê Thị Lễ vẫn có được sự bình tĩnh phi thường tiễn chồng lên tận toa tàu chở tù lưu đày. Sau đó, bà Lễ thu xếp, cắt đặt mọi việc nhà, và đưa con gái là Lương Thị Bảy và con trai út là Lương Ngọc Bôn sang Phnômpênh chăm sóc cho cha. ở lại nhà với bà chỉ còn người con trai thứ sáu là Lương Ngọc Bân. Nhưng rồi, mùa thu năm 1914, Lương Ngọc Bân lại qua đời vì bệnh lao. Chưa nguôi nỗi đau đớn này thì nỗi đau đớn khác lại ập đến: con trai cả Lương Nghị Khanh từ Hương Cảng sang Campuchia thăm cha thì bị ốm nặng, rồi mất ở nơi đất khách quê người. Còn con trai thứ hai là Lương Ngọc Quyến lại bị giặc Pháp bắt và đưa về Hà Nội, mở phiên tòa xử để thị uy. Bà Lê Thị Lễ bị gọi ra tòa. Tại phiên tòa đó, trước đông đảo người quan tâm, bà đã cứng cỏi nói:" Từ thuở còn trong bào thai, chúng tôi đã dạy con về tình thương yêu nòi giống. Bởi vậy, các con tôi theo đuổi mục đích cứu nước là hợp đạo lý gia đình và đạo lý đất nước chúng tôi, sao lại gọi là phản loạn". Và bà quay sang nói với con:" Mẹ chỉ mong con xứng đáng là con dân nước Việt đến hơi thở cuối cùng". Sau này, Lương Ngọc Quyến bị chính quyền thực dân đày lên Thái Nguyên. Rồi Lương Ngọc Quyến cùng Đội Cấn trở thành lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên năm 1917, và đã hi sinh như một người anh hùng.

Biết bao nhiêu biến cố dồn dập xảy ra mà bà Lễ vẫn trụ vững, vẫn đảm đương mọi việc trong gia đình. Cũng do phong trào đấu tranh trong nước và được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ Pháp, bọn thực dân đành phải giảm án lưu đày cho Lương Văn Can. Ông được trở về Hà Nội ngày 25 tháng 11 năm Tân Dậu, 1921, sau 8 năm lưu đày. Và, bà Lê Thị Lễ lại vừa lo làm ăn buôn bán, nuôi chồng chuyên tâm soạn những bộ sách. Cả thời kỳ bị lưu đày, cả thời kỳ về lại Hà Nội, Lương Văn Can đã soạn được những bộ sách: Quốc sư phạm lịch sử, Hán học tiệp kính, Hán tự quốc âm, Gia huấn… Biết chồng vẫn trung thành, tận tâm với công việc phụng sự nhân dân, Tổ quốc, bà Lê Thị Lễ lại dốc tài sản để xây dựng trường Nhị Khê học đường (ngày nay trường này mang tên Lương Văn Can), để chồng tiếp tục sự nghiệp. Trường bước vào hoạt động được 3 năm thì bà Lê Thị Lễ qua đời ngày 24 tháng ba năm 1927. Lương Văn Can đã viết về người vợ yêu quý của mình:" Là nhà buôn có đức nghiệp nên đã có đủ kinh tài, trên thì phụng dưỡng cha mẹ và dưới thì biết nuôi dạy con cháu nên người. Còn về đức hạnh thì biết giữ cho gia tộc trong khuôn khổ Nho giáo, trên kính dưới nhường, giữ đạo vợ chồng thủy chung trong muôn vàn gian lao hiểm họa…" Trong đám tang bà Lê Thị Lễ, ông Lương Văn Can cùng tất cả các môn sinh của mình đều có bức trướng với 6 chữ: Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ (Giữ tinh hoa đất nước, rửa nhục cho đất nước)!

Và rồi, chưa đầy hai tháng sau, vào ngày 13 tháng 5 năm Đinh Mão 1927 ông không ốm đau gì, bình thản qua đời. Có lẽ, ông đi đến cõi có bà Lê Thị Lễ. Đám tang của nhà chí sĩ Lương Văn Can là một sự kiện chính trị lớn ở Hà Nội khiến thực dân Pháp tốn công sức đối phó, có lẽ phải tốn nhiều giấy mực mới nói đủ. Chúng tôi chỉ muốn nói về một câu đối phúng viếng: Trung hiếu một nhà nghìn thuở trọng - Di ngôn sáu chữ vạn người soi. Sáu chữ đây là: Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ.

Theo HNNN

(0) Bình luận
Nổi bật
Đừng bỏ lỡ
Lương Văn Can và người vợ tài đức vẹn toàn

(*) Không sao chép dưới mọi hình thức khi chưa có sự đồng ý bằng văn bản của Báo Hànộimới.