Quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ đáp ứng yêu cầu phát triển thời kỳ mới

Chính trị - Ngày đăng : 07:20, 28/05/2018

Đó là những nội dung chính trong bài viết quan trọng của PGS.TS Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.


Việc quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định tới thực hiện, bảo đảm cho Nghị quyết đi vào cuộc sống đạt hiệu quả. Đó là những nội dung chính trong bài viết quan trọng của PGS.TS Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương.

Báo Hànộimới xin tóm lược nội dung bài viết, trân trọng gửi tới bạn đọc.

(...) Nghị quyết số 26-NQ/TƯ, ngày 19-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương đề ra 5 quan điểm chỉ đạo; việc quán triệt sâu sắc các quan điểm này có ý nghĩa rất quan trọng, quyết định tới việc thực hiện, bảo đảm cho Nghị quyết đi vào cuộc sống đạt hiệu quả. (...)

Thứ nhất, cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững.

Quan điểm trên đây tiếp tục khẳng định vị trí “then chốt” của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, và rộng hơn là đối với toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Vấn đề này đã được Đảng ta nhấn mạnh trong nhiều văn kiện trước đây, nhưng đặt trong bối cảnh hiện nay khi mà cấp ủy, người đứng đầu cấp ủy ở một số nơi nhận thức còn giản đơn, chưa thật sự chăm lo, quan tâm sâu sắc, chưa đầu tư đúng tầm mức cho xây dựng đội ngũ cán bộ, thậm chí có cả biểu hiện “khoán trắng” cho cơ quan làm công tác tổ chức, cán bộ… mới thấy tính thời sự của vấn đề. Một khi xác định vị trí “then chốt” của công tác cán bộ thì cấp ủy, nhất là người đứng đầu các cấp phải dành mối quan tâm đặc biệt, đầu tư xứng đáng cả tâm lực, trí lực và tài lực cho công tác cán bộ một cách bài bản, khoa học, tỉ mỉ, cẩn trọng với trách nhiệm cao nhất. (...)

Một điểm mới được xác định trong Nghị quyết là đặt việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trở thành một trọng tâm trong công tác cán bộ, là vấn đề hệ trọng của Đảng, quyết định đến thành bại của sự nghiệp cách mạng, sự tồn vong của chế độ.(...) Do đó, việc xác định xây dựng cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp là trọng tâm sẽ tạo chuyển biến mới về nhận thức, đẩy lùi căn bệnh bình quân chủ nghĩa, “dàn hàng ngang cùng tiến” trong xây dựng cán bộ tồn tại bấy lâu nay, tập trung nguồn lực ưu tiên đầu tư, tạo đột phá mới cho xây dựng đội ngũ cán bộ theo tư duy hệ thống và thực tiễn.

Công tác cán bộ có vị trí “then chốt”, xuyên qua mọi mặt công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, vì thế phải tiến hành thận trọng, chặt chẽ, vững chắc, khoa học. (...) Đặt trong bối cảnh có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ thì sai lầm trong công tác cán bộ càng nguy hiểm bội phần, nên cán bộ các cấp, trước hết là cán bộ cấp chiến lược, phải được chăm lo xây dựng bài bản, lựa chọn cẩn trọng, sàng lọc kỹ càng, quản lý chặt chẽ và có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích đội ngũ này đổi mới, sáng tạo phục vụ phát triển. Cấp ủy Đảng các cấp luôn phải quán triệt sâu sắc vị trí “then chốt” và tính “hệ trọng” của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ, bảo đảm cho “then cài” luôn vững chắc, nếu thấy suy yếu hoặc có biểu hiện bị “ruỗng mọt” phải kịp thời thay thế. Mặt khác, nói đến công tác cán bộ là nói đến vấn đề con người với tất cả nhu cầu, lợi ích, tâm lý, tình cảm… rất phức tạp nên nghĩ phải “chín”, tiến hành phải thận trọng, chắc chắn, không thể làm ẩu, làm bừa, phải được làm chặt chẽ ở tất cả các khâu, từ tuyển chọn, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, giới thiệu, ứng cử đến đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ.

Công tác cán bộ không thể tiến hành theo “phong trào” mà tiến hành thường xuyên, liên tục, không được gián đoạn; được quan tâm trong cả vòng đời của một con người từ khi bắt đầu được phát hiện ở dạng nguồn đến khi trưởng thành; từ trạng thái phát triển bình thường đến các bước ngoặt khi cất nhắc, bố trí, đề bạt; từ hoạt động tạo nguồn đến đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. (...)

Tiếp cận trên quan điểm hiệu quả đối với công tác cán bộ là vấn đề mới được đặt ra trong Nghị quyết lần này. Hiệu quả có thể được tiếp cận từ góc độ kinh tế học, xem đầu tư cho cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, phải có công cụ, phương pháp đo lường mức độ đầu tư với kết quả thu được, mấu chốt là đánh giá cán bộ bằng sản phẩm cụ thể. Đánh giá cán bộ vì thế trở thành khâu đột phá, trước hết để bảo đảm cho quan điểm hiệu quả được hiện thực hóa trên thực tế, khắc phục tình trạng lãng phí không đáng có. (...)

Có những khoản đầu tư trước mắt nhưng kết quả thu được trong dài hạn. Vì vậy, quán triệt luận điểm này đòi hỏi phải huy động nguồn lực xứng đáng để đầu tư cho phát triển đội ngũ cán bộ, từ đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng đến chính sách tiền lương, nhà ở, bảo đảm đời sống, tạo động lực cho cán bộ. (...) Nhưng nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần tập trung đầu tư nguồn lực vật chất mà xem nhẹ đầu tư cho giáo dục chính trị tư tưởng, phát huy truyền thống văn hóa, lịch sử và lòng tự hào dân tộc.

Thứ hai, thực hiện nghiêm, nhất quán Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương đi đôi với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo và bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung. Phân công, phân cấp gắn với giao quyền, ràng buộc trách nhiệm, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực và xử lý nghiêm minh sai phạm.

(...) Điểm mới nổi bật ở quan điểm trên đây được đề cập xuyên suốt trong toàn bộ Nghị quyết lần này chính là nhận diện và xác định cách thức giải quyết hai mối quan hệ giữa chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương với xây dựng thể chế, tạo môi trường, điều kiện cho thúc đẩy đổi mới, phát huy sáng tạo của cán bộ; và giữa phân cấp, phân quyền gắn với kiểm tra, giám sát, ràng buộc quyền hạn với trách nhiệm, kiểm soát quyền lực, xử lý nghiêm sai phạm. Giải quyết tốt hai mối quan hệ này sẽ đột phá vào những mắt xích trọng yếu đang nuôi dưỡng chủ nghĩa trung bình, trì trệ, bảo thủ, tình trạng vô trách nhiệm, thiếu kỷ luật, kỷ cương, không xác định rõ trách nhiệm, triệt tiêu các đổi mới, sáng tạo, làm thui chột ý chí và năng lực của những con người dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho lộng quyền, tha hóa quyền lực.

Chuẩn hóa, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, trước hết là để công tác cán bộ được khách quan, minh bạch, chống chạy chức, chạy quyền, khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, bệnh phường hội, lợi ích nhóm, thân hữu, dòng tộc, “cánh hẩu”... chi phối trong công tác cán bộ, chà đạp hoặc xem nhẹ các nguyên tắc, quy định, quy trình. Kiến tạo, mở rộng không gian, môi trường khuyến khích cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung được bảo vệ bởi cơ chế “bảo đảm chính trị” để cán bộ tự tin phấn đấu, dấn thân mà không sợ rủi ro chính trị, để tránh tư tưởng an phận thủ thường làm thui chột tài năng, nhuệ khí, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh. (...)

Do đó, cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung là một điểm thể hiện tinh thần đổi mới mạnh mẽ của Trung ương lần này. Khi cán bộ có tư tưởng đổi mới, sáng tạo vì cái chung thì tập thể phải nghiêm túc nghiên cứu, thảo luận dân chủ trên tinh thần tôn trọng cái mới, phải xây dựng thể chế, cơ chế để bảo vệ những con người năng động, sáng tạo, dám chịu trách nhiệm trước tập thể về quyết định của mình. (...)

Phân cấp, phân công được nhấn mạnh trong quan điểm này nhằm làm cho các chủ thể quản lý cán bộ xác định rõ hơn quyền và ràng buộc trách nhiệm, chủ động trong nhiệm vụ của mình, tránh tình trạng ỷ lại, đùn đẩy, thoái thác trách nhiệm ở những việc khó. (...)

Thứ ba, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, thường xuyên đổi mới công tác cán bộ phù hợp với tình hình thực tiễn. Xây dựng đội ngũ cán bộ phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân; đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài.

(...) Lần này, Nghị quyết yêu cầu tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ, bởi nhìn lại quá trình thực hiện Chiến lược cán bộ 20 năm qua, có nơi, có lúc xuất hiện tư tưởng chủ quan, duy ý chí, nhất là đổi mới công tác cán bộ chưa đồng bộ, chưa tương thích với đổi mới kinh tế; nhiều cơ chế, chính sách đối với cán bộ chưa phù hợp với cơ chế thị trường như tiền lương chưa tính toán đầy đủ các yếu tố của thị trường, tương quan giữa khu vực công với khu vực tư; tuyển chọn, đề bạt cán bộ có nơi, có lúc chưa thật sự bảo đảm nguyên lý cạnh tranh lành mạnh giữa các ứng viên; các quy luật về nhu cầu, lợi ích, tâm lý của con người chưa được tính toán kỹ và vận dụng hợp lý theo quy luật khách quan trong công tác cán bộ.

Hay nói cách khác, khi vận hành kinh tế thị trường thì việc tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan là phải cạnh tranh, nhưng trong công tác cán bộ quá trình thực hiện chưa thể hiện rõ nét tính cạnh tranh theo đúng quy luật này. Tôn trọng quy luật khách quan đòi hỏi công tác cán bộ phải xuất phát từ thực tiễn và quay trở lại thực tiễn làm cơ sở, căn cứ để hoàn thiện lý luận, quan điểm về công tác cán bộ; cảnh giác và phòng ngừa với các biểu hiện chủ quan, duy ý chí và chủ nghĩa quan liêu hay giáo điều trong công tác cán bộ. (...)

Lợi ích của nhân dân là căn cứ xuất phát cho sáng tạo, đổi mới của cán bộ; phong trào cách mạng là môi trường cho cán bộ rèn luyện, phấn đấu, đồng thời là nơi kiểm nghiệm, tôn vinh những cán bộ đem lại lợi ích cho nhân dân, được nhân dân ghi nhận, là nơi sàng lọc những cán bộ yếu kém, thoái hóa, biến chất, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Mỗi thời kỳ lịch sử, ứng với nhiệm vụ cách mạng cụ thể, phải có đội ngũ cán bộ tương ứng. (...)

Xây dựng đội ngũ cán bộ phải đặt trong tổng thể của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, và giữa xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều nội dung, nhưng trung tâm vẫn là cán bộ, đảng viên và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiệu quả sẽ tác động tích cực, sâu sắc đến xây dựng đội ngũ cán bộ. Chỉ khi có chuyển biến tích cực thật sự trong xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là việc phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ cấp chiến lược, của người đứng đầu cấp ủy các cấp trong phấn đấu, rèn luyện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả thì xây dựng, chỉnh đốn Đảng mới thành công; làm tiền đề cho xây dựng đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh. (...) Hiệu quả các phương thức lãnh đạo của Đảng phụ thuộc trực tiếp vào cán bộ.

Vì vậy, chất lượng cán bộ được nâng cao sẽ quyết định đến hiệu quả thực hiện các phương thức lãnh đạo cơ bản của Đảng: Bằng chủ trương, đường lối thông qua các nghị quyết của Đảng; bằng tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; bằng nêu gương; bằng tổ chức và đảng viên; bằng kiểm tra, giám sát. Nói một cách khác, các phương thức lãnh đạo của Đảng có phát huy được hay không đều do việc xây dựng, lựa chọn, bố trí cán bộ có đúng đắn, phù hợp hay không; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải gắn kết chặt chẽ, hiệu quả với xây dựng đội ngũ cán bộ. Chỉ khi gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thì mới bảo đảm tính đồng bộ của công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và phát huy tốt nhất phương thức lãnh đạo của Đảng.

Cán bộ là nhân tố “động” của tổ chức, cho nên, xây dựng đội ngũ cán bộ phải gắn với kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Chỉ trên cơ sở xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, không chồng chéo, trùng lắp, phân quyền và phân cấp rõ ràng, rành mạch, mới bảo đảm cho cán bộ thực sự phát huy tinh thần, trách nhiệm, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. (...)

Xây dựng đội ngũ cán bộ phải dựa trên cơ sở nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng và thu hút, trọng dụng nhân tài. Thoát ly khỏi quá trình nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài thì có nghĩa là công tác cán bộ chỉ tiến hành phần “ngọn” mà tách rời khỏi phần “gốc” làm nền tảng. Một nền giáo dục tiên tiến, nhân văn, phù hợp và hội nhập sẽ có ý nghĩa tích cực vào việc tạo nguồn cán bộ cho đất nước. Đây là cái nôi nuôi dưỡng, hình thành nhân cách, ý thức trách nhiệm với đất nước, lòng tự tôn dân tộc... ở mỗi con người.

(...) Vì vậy, đổi mới công tác cán bộ phải gắn với cải cách nền giáo dục nước nhà để tạo nguồn nhân lực dồi dào, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao để tuyển chọn, đào tạo, sử dụng, phát huy cán bộ trên nền tảng vững chắc đó. (...) Phải đổi mới căn bản công tác phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài một cách dân chủ, khoa học, công khai, minh bạch thì mới sử dụng ở mức cao nhất, hiệu quả nhất các tài năng trong xã hội, kể cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Thứ tư, quán triệt nguyên tắc về quan hệ giữa đường lối chính trị và đường lối cán bộ; quan điểm giai cấp và chính sách đại đoàn kết rộng rãi trong công tác cán bộ. Xử lý hài hòa, hợp lý mối quan hệ giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, trong đó tiêu chuẩn là chính; giữa xây và chống, trong đó xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên; giữa đức và tài, trong đó đức là gốc; giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể.

Yêu cầu trước hết trong quan điểm này là quán triệt nguyên tắc về tính thống nhất giữa đường lối chính trị với đường lối cán bộ. Đường lối cán bộ phải phục tùng đường lối chính trị. Đường lối chính trị vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ, phương hướng, con đường và các giải pháp để đạt được mục tiêu của sự nghiệp cách mạng, trong đó có xây dựng đội ngũ cán bộ. Ngược lại, ứng với đường lối chính trị ở từng thời kỳ phải có đường lối cán bộ phù hợp. Yêu cầu cơ bản của đường lối cán bộ là xây dựng được một đội ngũ cán bộ có khả năng hoạch định và tổ chức thực thi đường lối chính trị đạt kết quả tối ưu.

Vì vậy, sai lầm trong lựa chọn cán bộ, đặc biệt cán bộ cấp chiến lược, không chỉ làm ảnh hưởng tới hiệu quả khâu tổ chức thực hiện, mà không loại trừ nguy cơ sai lầm về đường lối khi cán bộ là người tham gia hoạch định đường lối. Quán triệt luận điểm này đòi hỏi phải khắc phục các biểu hiện xây dựng cán bộ thoát ly đường lối chính trị, không xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ chính trị mà định ra tiêu chuẩn, cơ cấu cán bộ, hoặc tuyệt đối hóa cán bộ mà xem nhẹ đường lối chính trị. (...)

Xử lý mối quan hệ biện chứng giữa quan điểm giai cấp với thực hiện đại đoàn kết dân tộc trong xây dựng đội ngũ cán bộ là quan điểm nhất quán của Đảng ta từ trước tới nay. Quán triệt quan điểm giai cấp, cố nhiên không chỉ quan tâm đến nguồn gốc xuất thân của cán bộ, mà cơ bản hơn là mọi cán bộ đều phải được giáo dục để thấm nhuần sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải được giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng; phải đứng trên lập trường của Đảng để xem xét, xử lý mọi công việc, kể cả tác phong sinh hoạt đời thường; phải được thử thách, rèn luyện qua thực tiễn để thấu hiểu và thấu cảm đời sống nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm hạnh phúc của chính mình; phải lấy mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sự phát triển của đất nước, hạnh phúc của nhân dân làm khát vọng dấn thân, cống hiến và hy sinh; rèn tác phong và lối sống gần gũi, gắn bó với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, tẩy trừ các căn bệnh “quan cách mạng” xa cách nhân dân, xa lạ với bản chất của người cán bộ cách mạng.

Đi đôi với quán triệt quan điểm giai cấp là phát huy khối đại đoàn kết dân tộc trong công tác cán bộ, đặc biệt là mở rộng dân chủ để thu hút, trọng dụng nhân tài rộng rãi; đổi mới công tác hiệp thương, bầu cử để thu hút người ngoài Đảng tham gia Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp; mở rộng diện quy hoạch và tổ chức thi tuyển để trọng dụng được cả người trong và ngoài Đảng có tài đức, tâm huyết phấn đấu cho đất nước; bảo đảm liên thông giữa nhân lực khu vực công với khu vực tư; có cơ chế để bảo đảm tỷ lệ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, trí thức, văn nghệ sĩ trong các thiết chế lãnh đạo, quản lý; xây dựng cốt cán trong các tôn giáo; có chính sách trọng dụng nhân tài, chuyên gia có trình độ cao không phân biệt thành phần giai cấp, những người có tâm huyết tham gia vào các tổ chức khác nhau để hiến kế, đóng góp trí tuệ, sức lực cho đất nước. Phát huy vai trò đoàn kết, tập hợp của Mặt trận Tổ quốc các cấp trong công tác cán bộ, bao gồm cả tham gia giám sát, phản biện xã hội đối với đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. (...) Khi xử lý các mối quan hệ lớn như giữa tiêu chuẩn và cơ cấu, xây và chống, đức và tài, quan điểm nêu trên đã định vị được vai trò, tính chất của từng yếu tố trong từng cặp quan hệ, nhất là khi thao tác cụ thể như một biện pháp kỹ thuật của công tác cán bộ.

Trong giải quyết mối quan hệ giữa cơ cấu và tiêu chuẩn phải xem tiêu chuẩn là chính - quan điểm này tạo cơ sở cho nhận thức và xử lý nhiều bất cập trước đây vì nặng về cơ cấu mà xem nhẹ tiêu chuẩn dẫn tới chất lượng cán bộ không bảo đảm; đặt cơ sở cho đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đáp ứng yêu cầu chuẩn hóa cho các vị trí lãnh đạo, quản lý, đặc biệt với cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số. Trong giải quyết mối quan hệ giữa đức và tài thì đức là gốc, mà đã là gốc thì phải được quan tâm chăm lo đặc biệt nhằm bảo đảm sự vững chắc, bởi nếu nền móng không vững thì mọi cái sẽ lung lay. Nói cách khác, đức bảo đảm cho tài được sử dụng đúng đắn. Cán bộ cấp càng cao thì tiêu chuẩn đạo đức càng phải chuẩn mực, nghiêm ngặt. Không có đức thì không dùng. Bởi tài năng mà thiếu đạo đức càng nguy hiểm khi tài năng đó chỉ sử dụng cho chủ nghĩa cá nhân, gây tổn hại cho sự nghiệp cách mạng.

Có đức rồi thì phải chú trọng cả tài năng, bởi nếu như đạo đức bảo đảm cho tài năng được vận hành đúng phương hướng, mang lại giá trị tốt đẹp cho Đảng, cho đất nước, cho nhân dân, thì tài năng bảo đảm cho làm việc hiệu quả, khả năng hoàn thành nhiệm vụ. Trong mối quan hệ giữa xây và chống thì xây là nhiệm vụ chiến lược, cơ bản, lâu dài, chống là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng. (...) Một loạt mối quan hệ khác được đề cập trong quan điểm này như giữa tính phổ biến và đặc thù; giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển; giữa thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân và tập thể. Đây là các mối quan hệ rất cơ bản, nếu không nhận thức thấu đáo và thiếu giải pháp hợp lý, khi thao tác thành biện pháp kỹ thuật rất dễ nghiêng về cực này hay cực kia.

Quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù chi phối rất lớn đến công tác cán bộ, bản chất là xử lý quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Không chú ý thỏa đáng tính đặc thù thì sẽ không tính toán hết tính tộc người, tính địa phương, yếu tố giới, đặc điểm từng loại cán bộ… trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ; còn cường điệu hóa tính đặc thù, xem nhẹ tính phổ biến sẽ dẫn tới chủ nghĩa đặc thù, bất chấp tiêu chuẩn chung, làm suy yếu tổ chức, hạn chế đến chất lượng cán bộ. Khi xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết phải xuất phát từ cái chung, tính phổ biến, nhưng cũng không được bỏ qua cái riêng, tính đặc thù. Một chính sách phù hợp, có sức sống thì phải hội tụ cả tính phổ quát và tính chuyên biệt. Có như vậy mới bảo đảm hài hòa, tiếp nối giữa các độ tuổi cán bộ để tranh thủ được trí tuệ, kinh nghiệm của lớp cán bộ cao niên, nhưng đồng thời cũng phát huy được tài năng, sự táo bạo, khả năng bứt phá của lớp trẻ.

Quan hệ giữa kế thừa, đổi mới và ổn định, phát triển cũng là quan hệ rất cơ bản có ý nghĩa trong công tác cán bộ. Phát triển bền vững vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu hướng tới của đổi mới, làm cho đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành cả về mặt lượng lẫn mặt chất. Kế thừa, ổn định là điều kiện, tiền đề, môi trường cho đổi mới, sáng tạo và phát triển. Ổn định của đội ngũ cán bộ không đồng nghĩa với trì trệ, bảo thủ mà là trạng thái phát triển trong cân bằng, không dẫn tới rối loạn, bất ổn, giữ vững bản chất cách mạng. (...)

Quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm tập thể và cá nhân là vấn đề rất cốt yếu trong công tác cán bộ, cũng là nội dung chủ yếu của nguyên tắc tập trung dân chủ, trên thực tế còn gặp không ít vướng mắc khi triển khai. Rất phổ biến là trách nhiệm tập thể chung chung, trách nhiệm cá nhân không rõ ràng, nên khi xảy ra các tiêu cực, vi phạm không xác định được cá nhân chịu trách nhiệm. Trách nhiệm tập thể chung chung cũng là môi trường cho cá nhân núp bóng, mượn danh tập thể để hợp thức hóa động cơ cá nhân mà né tránh nguyên tắc, kỷ luật của tổ chức.

Trong khi khắc phục tình trạng vai trò tập thể chung chung, không phải dễ dàng tìm được giải pháp thích hợp mà dễ nhảy từ cực nọ sang cực kia, tức xem nhẹ vai trò tập thể, cá nhân lộng quyền, lạm quyền trong các khâu khác nhau của công tác cán bộ. Vì vậy, xử lý mối quan hệ giữa thẩm quyền, trách nhiệm tập thể và cá nhân đòi hỏi phải thể chế hóa nguyên tắc tập trung dân chủ thành quy chế, quy định, quy trình để trao quyền cụ thể ở từng khâu, từng mặt đối với cá nhân hay tập thể, ràng buộc trách nhiệm với quyền hạn được giao, khắc phục các kẽ hở cho lộng quyền, lạm quyền hoặc thói vô trách nhiệm trong công tác cán bộ. Một số thí điểm đặt ra trong Nghị quyết lần này theo hướng tìm tòi, phát huy vai trò, thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân trong công tác cán bộ, đồng thời vẫn giữ vững, tăng cường trách nhiệm của tập thể với quy trình, thủ tục trong công tác cán bộ theo đúng quy định và không xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ.

Thứ năm, xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là cấp ủy, tổ chức Đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu của Đảng, trong đó cơ quan tổ chức, cán bộ là nòng cốt. Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ.

Quan điểm này xác định rõ trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và từng chủ thể đối với xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ; trật tự, vị trí, vai trò của từng chủ thể đối với từng khâu, từng mặt của công tác cán bộ. Trong khi xác định trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, quan điểm này chỉ rõ trách nhiệm trực tiếp là của cấp ủy, tổ chức Đảng, trước hết là người đứng đầu và các cơ quan tham mưu của Đảng làm công tác tổ chức, cán bộ có vai trò nòng cốt. Điều này nhất quán với nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, trách nhiệm trước hết của cấp ủy Đảng, tổ chức Đảng trong chăm lo xây dựng toàn diện mọi mặt từ công tác tạo nguồn, tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng, luân chuyển cũng như chính sách đối với cán bộ, từ chăm lo phát triển tâm lực đến trí lực, thể lực, được thực hiện thường xuyên trong cả vòng đời của người cán bộ.

Cùng với trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp là phải phát huy mạnh mẽ, đầy đủ vai trò của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân trong xây dựng đội ngũ cán bộ. Trách nhiệm của Nhà nước thể hiện ở năng lực thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành pháp luật để quản lý cán bộ theo pháp luật; thực hiện giám sát tối cao của Quốc hội và giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp đối với cán bộ, công chức, viên chức, góp phần kiểm soát quyền lực; thực hiện các nhiệm vụ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, bầu cử, thi đua - khen thưởng, quản lý công chức, viên chức theo phân công, phân cấp; huy động nguồn lực và quản lý có hiệu quả nguồn lực đầu tư cho xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, từ nguồn lực cho xây dựng kết cấu hạ tầng - kỹ thuật, đào tạo, bồi dưỡng đến chính sách tiền lương, nhà ở…

Nhà nước phải ngày càng làm tốt hơn vai trò thể chế hóa đường lối cán bộ của Đảng, bao gồm từ ghi nhận về mặt lập pháp, thực thi về mặt hành pháp và bảo vệ về mặt tư pháp. Nhà nước trở thành vấn đề trung tâm bảo đảm cho cán bộ có môi trường nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để trưởng thành lành mạnh, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá; được đầu tư tương xứng với sự cống hiến, phấn đấu vì lợi ích chung; được bảo vệ một cách chính đáng đối diện với nguy cơ rủi ro, bất lợi…

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có trách nhiệm đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ, bảo đảm đại đoàn kết toàn dân tộc trong công tác cán bộ. Trong điều kiện tăng cường kiểm soát quyền lực, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân phải làm tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội, từ phản biện đường lối cán bộ khi ở dạng dự thảo, chuyển tải đầy đủ nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đến giám sát đội ngũ cán bộ công chức, bao gồm cả hành vi công vụ đến đạo đức, lối sống, bảo đảm cho cán bộ luôn trong sạch, liêm chính, phòng ngừa tha hóa, sa ngã.

Quan điểm này cũng nhấn mạnh đến vai trò của truyền thông, báo chí trong xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Không phải bây giờ Đảng ta mới thấy vai trò của báo chí, mà trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta đã rất coi trọng sử dụng báo chí trở thành phương tiện đắc lực hỗ trợ, phục vụ cho công tác cán bộ. Nhưng hiện nay, chúng ta đang đối diện với sự bùng nổ của mạng xã hội, cách mạng công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, báo chí kỹ thuật số ngày càng lấn át báo in truyền thống… và tác động hằng ngày, hằng giờ đến đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Phải nắm chắc trận địa truyền thông, báo chí, hóa giải các sức ép bất lợi của mạng xã hội, đặc biệt quan tâm tới công tác chính trị tư tưởng, rèn luyện đạo đức, lối sống cho cán bộ. Báo chí và truyền thông phải góp phần làm tốt việc tổng kết thực tiễn, nhất là phát hiện gương điển hình tiên tiến, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá để bảo vệ, tuyên truyền, phổ biến, nhân rộng, tạo ảnh hưởng lan tỏa; phát hiện những tiêu cực trong đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ để tạo dư luận đấu tranh có hiệu quả; hình thành nên dư luận xã hội ủng hộ, cổ vũ cái mới, cái tiến bộ trong đội ngũ cán bộ cũng như phê phán, đấu tranh với những thói hư, tật xấu, tiêu cực, biểu hiện tha hóa quyền lực; đồng thời cũng phải bảo vệ cái đúng, người tốt, người dám xả thân vì dân, vì nước.

Tư tưởng dựa vào dân để xây dựng đội ngũ cán bộ thực chất là việc lấy dân làm gốc, tuy không mới nhưng đặt trong bối cảnh công tác cán bộ ở nơi này hay nơi khác, lúc này hay lúc khác còn tiến hành khép kín, chưa huy động được đầy đủ sự tham gia của nhân dân, tình trạng quan liêu, xa dân, thờ ơ của cán bộ với nhu cầu, nguyện vọng của nhân dân nhiều nơi đáng báo động, nên nhấn mạnh việc phải dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong Nghị quyết lần này lại mang ý nghĩa thời sự cấp bách. Điều đó bắt nguồn từ việc cụ thể hóa những nội dung mới của Nghị quyết Đại hội XII của Đảng là nhân dân tham gia xây dựng Đảng và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân; Đảng chỉ hoàn thành sứ mệnh của mình khi cán bộ, đảng viên được nhân dân tin yêu, ủng hộ, đùm bọc; đường lối của Đảng chỉ trở thành phong trào cách mạng, được hiện thực hóa trong đời sống khi được nhân dân đồng tình, hưởng ứng, mọi phát ngôn và hành động của cán bộ được dân tin và làm theo; dân chỉ tin Đảng khi cán bộ thật sự gương mẫu, có uy tín, có phẩm chất đạo đức tốt và tất cả vì dân, nói đi đôi với làm. (...)

Báo chí phải làm tốt định hướng dư luận đối với nhân dân và trở thành một kênh thông tin chính thống phản ánh xã hội, những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

PGS.TS Phạm Minh Chính
Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương