Làng Thư Cưu

Xã hội - Ngày đăng : 10:16, 05/07/2005

(HNMĐT) - Thư Cưu là làng rất nhỏ, trước Cách mạng chỉ có chưa đầy 40 gia đình, tất cả đều mang họ Nguyễn. Tuy nhiên, theo tấm bia lập năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719) còn lưu ở chùa thì vào thời điểm này, làng đã là một xã độc lập.

(HNMĐT) - Thư Cưu là làng rất nhỏ, trước Cách mạng chỉ có chưa đầy 40 gia đình, tất cả đều mang họ Nguyễn. Tuy nhiên, theo tấm bia lập năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (1719) còn lưu ở chùa thì vào thời điểm này, làng đã là một xã độc lập. Đầu thế kỷ XIX, làng chỉ còn là một thôn thuộc xã Lương Quán, tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (từ 1831 trở đi là tỉnh Bắc Ninh). Đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, làng lại tách ra thành một xã.

Dân làng xưa kia làm ruộng là chính. Cả làng chỉ có 86 mẫu ruộng, phần lớn là ruộng công, dành vào việc tế lễ và bán thuê, lấy tiền dùng vào các việc chung.

Làng có nghề làm bỏng mật. Tục truyền, nghề này có từ thời Thục An Dương, làng chuyên lo hậu cần cho triều đình và binh lính. Thường thì, từ sau hội tháng Giêng, khi đã làm lễ tiến bỏng lên An Dương Vương ở đình Cổ Loa, việc làm bỏng mới bắt đầu. Thóc làm bỏng là từ nếp cái hoa vàng, thường mua ở làng Dục Tú, hạt thóc khi rang lên nổ bỏng đều và to. Thóc được rang trong một chảo to nên phải đắp lò, đáy chảo tráng qua một lượt mỡ để thóc không cháy, lại nhanh nổ bỏng. Lấy 10 que tre nhỏ như que tăm bó chụm lại làm que để khua thóc trong chảo cho nóng đều, đầu bó que chấm một lớp mỡ. Khi thóc nổ hết bỏng đem ra giần, mẹt xảy hết trấu, trộn với một ít lạc đã rang, rồi hòa với nước mật (thường là mật ở vùng Mai Lĩnh, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây). Tỷ lệ mật trộn theo phụ thuộc một trong ba loại bỏng được làm ra:

- Bỏng thửa: làm cho những người đến đặt để đi lễ hoặc có công việc lớn. Loại bỏng này thường nhiều mật và có thêm thảo quả cho thơm.

- Bỏng nặng: loại bỏng thứ hai, ít mật hơn loại bỏng thửa và không có thảo quả.

- Bỏng nhẹ : ít đường mật, không có thảo quả và lạc.

Trộn mật xong cho vào khuôn ép thành các khối bỏng có kích thước 37 x 10 x 10 cm.

Trước Cách mạng, do không đủ ruộng đất để cày cấy, ruộng lại chỉ cấy được vụ mùa nên hầu hết các gia đình đều làm bỏng để có thu nhập. Một gia đình trong một ngày làm một xó thóc (khoảng 8 kg) và bán hết hàng thì được lãi khoảng 5 kg gạo, đủ lương thực và có thêm tiền chi tiêu, lại tận dụng được sức lao động của cả gia đình trong nhiều tháng làm nghề (từ tháng Giêng đến hết tháng Ba). Bỏng làm xong, phải gánh bỏng đi khắp các chợ trong vùng (trong vòng bán kính 20 km) để bán, như chợ Sọ (Phù Lỗ), chợ Núi (Sóc Sơn), chợ Chờ (Yên Phong, Bắc Ninh), chợ Me, chợ Giầu (Từ Sơn, Bắc Ninh), thậm chí ra cả chợ Bưởi (Hà Nội).

Do là làng nhỏ nên xưa kia Thư Cưu không chia thành các xóm và giáp. Trai đinh trong làng lần lượt làm nghĩa vụ theo tuổi tác. Làng không lệ nuôi lợn thờ.

Làng có ngôi đình được sửa lại từ ngôi đình lá vào năm Vĩnh Thịnh thứ 15 (Kỷ Hợi, 1719). Xưa kia, đây là ngôi đình 5 gian nối với hai gian hậu cung, nhìn hướng Nam. Lúc đầu đình ở vị trí hiện nay, sau đó được chuyển về cổng làng, rồi lại được chuyển về vị trí hiện tại. Cả hai lần chuyển đều không rõ thời điểm. Mới đây đình được tu bổ lại.

Làng có chùa Linh Quang, hiện trong chùa chỉ còn hai tấm bia muộn nên không thể cho biết quá trình xây dựng và tu bổ chùa. Tấm bia thứ hai “Linh Quang tự hậu Phật bi” mới lập ngày mồng một, tháng Chạp năm Bảo Đại thứ chín (1934) có nội dung ông Nguyễn Văn Xuân và vợ là bà Nguyễn Thị Đàm xuất 20 đồng và 1 sào 10 thước ruộng cho chùa để được chùa cúng giỗ.

Trước Cách mạng, làng Thư Cưu kết nghĩa với hai làng Lương Quán và xóm Thượng (làng Cổ Loa). Việc kết nghĩa của làng vì hai lý do: với làng Lương Quán, do làng này thường xuyên giúp đỡ về mặt rước hội và tổ chức đám tang; còn với xóm Thượng là xóm cận cư, cận canh nên luôn giúp Thư Cưu trong việc việc bảo vệ an ninh và tổ chức tang lễ.

TS. Bùi Xuân Đính

LANHUONG